TƯỢNG PHẬT
I . Tượng Phật ở Chùa
Tùy theo
tập quán từng quốc gia, tông phái, pháp môn nên sự thờ
phượng bài trí có đôi phần khác biệt, nhưng tựu
trung cũng chỉ có mục đích chiêm bái hàng ngày. Ở
Việt Nam
xưa kia thờ tự khá rườm rà.
Các chùa thường thờ Phật, thờ Tổ(Đạt
Ma, Lâm Tế. . .hiện tiền Tổ Sư), thờ Thánh(Quan
Vân Trường, Hưng Đạo Vương. . .). Cách bài
trí các tượng chư Phật, chư
Bồ Tát, có thứ lớp và ư nghĩa rơ ràng. Dưới đây chỉ tŕnh bày cách thờ Phật,
thờ Tổ, không giải thích về sự thờ Thánh
của một số chùa. Phần nhiều các chùa bài
trí theo nguyên tắc: Tiền Phật, hậu
linh. Ở trước chánh điện thờ Phật, hậu
liêu thờ linh: Án giữa thờ Tổ,
án tả hữu dành cho những ân nhân nhà chùa và vong linh kư tự;
có nơi v́ chật hẹp không có phía sau phải thờ hai
bên căn trước.
Phật có tam thân: Pháp thân, Báo thân
và Ứng thân.
Vậy cách bài trí các tượng ở chánh
điện từ trên xuống dưới theo thứ
tự sau đây :
A)-Tượng Tam Thế
Phật.- Lớp trên cùng tột ở chỗ giáp vách phía
trong, có ba pho tượng để ngang một dẫy, h́nh
dáng giống nhau, tức là tượng "Thường trụ tam thế diệu pháp thân",
người ta thường gọi tắt là tượng
Tam thế Phật, nghĩa là Phật thường trụ,
trong thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.
B)-Tượng Di-Đà tam tôn.-
Lớp thứ hai có ba pho tượng lớn, pho
tượng ngồi giữa là pho tượng đức
A-Di-Đà Phật, tức là Thụ-dụng Trí-tuệ thân “Báo thân”, Pho tượng
đứng bên tả là tượng đức
Quan-Thế-Âm Bồ Tát, pho tượng đứng bên
hữu là tượng đức Đại Thế-Chí
Bồ-Tát. Đức Phật và hai Bồ Tát
ấy ở Tây-phương Cực-lạc, chủ việc
cứu độ chúng sinh ở cơi Sa-bà qua cơi Cực lac.
C)-Tượng Hoa Nghiêm Tam
Thánh.-Lớp thứ ba có ba pho tượng lớn, pho
tượng lớn ngồi giữa là tượng Thích Ca
Mầu Ni Phật, tức là Ứng-
thân hay là biến hóa thân, giáng sinh xuống trần
thế, tu thành chính quả và thuyết pháp độ chúng,
pho tượng ở bên phải, hoặc đứng trên
toà sen , hoặc ngồi trên con sư tử xanh là
tượng Đức Văn-Thù Bồ-Tát; pho tượng
ở bên hữu, hoặc đứng trên toà sen, hoặc
ngồi trên con voi tráng là tượng Đức
Phổ-Hiền Bồ-Tát, theo thuyết nói trong Hoa Nghiêm kinh.
Ở lớp thứ ba ấy có nhiều chùa làm
tượng đức Thich Ca Mầu-Ni ngồi cầm
hoa-sen, như khi ngài thuyết pháp ở Linh-Thứu-Sơn;
bên tả là tượng Ca-Diếp Tôn-Giả, vẻ mặt
già, bên hữu là tượng A-Nan-Đà tôn giả, vẻ
măt trẻ, là hai đại đệ tử của
Đức Thích-Ca khi ngài c̣n ở thế-gian. Tượng
hai vị tôn giả ấy đều tạc đứng,
h́nh dáng hai người tỳ khưu.
D)-Tượng Cửu Long.- Lớp thứ tư có pho tượng
Cửu Long để giữa. Tượng này theo
điển nói khi đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng
sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài
tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả
chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất và
ở trên những đám mây có chư Phật chư thiên,
nhă nhạc, cờ phướn và bát bộ Kim Cương,
đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật
lúc sơ sanh. Bên tả tượng Cửu Long có
tượng Đế Thích ngôi ngai, mặc áo đội
mũ Hoàng Đế, bên hữu có tượng Đại
Phạm Thiên cùng một kiểu như pho tượng
Đế Thích, đó là theo điển nói hai vị
Đại Thiên Vương này chủ-tế ở cơi sa-bà
thế-giới và lúc nào cũng hộ tŕ Đưc Thích - Ca
khi ngài chưa thành Phật.
Những chùa thường, ở trong điện thờ
Phật, chỉ bầy có thế mà thôi. c̣n những chùa
rộng lớn th́ bầy thêm hai lớp tượng
nữa là :
E)- Tượng Tứ Thiên -
Vương.- Ở ngoài tượng Cửu Long
để bốn pho tượng Tứ-Thiên-Vương
mạc áo Vương-phục, bày làm hai dẫy đối
nhau, tức là bốn vị hộ thế.
F)-Tượng tứ Bồ
Tát.- Có chùa bỏ tượng Tư-Thiên-Vương mà
bày tượng bốn vị Bồ-Tát, tạc h́nh
Thiên-thần gọi là Ái-Bồ-Tát, tay cầm cái tên; Sách
Bồ-Tát, tay cầm cái cây; Ngũ Bồ-Tát, tay cầm cái
lưỡi; Quyền Bồ-Tát tay nắm lại và
để vào ngực.
G)- Tượng Bát-Bộ
Kim-Cương.- Có nhiều chùa tạc 8 vị
Kim-Cương, là thần tướng trên trời,
thường gọi là Bát-bộ Kim-Cương gồm có :
1)-Thanh Trừ Tài Kim-Cương.
2)-Tích-Độc-Thần Kim-Cương.
3)-Hoàng-Tuỳ-Cầu Kim-Cương.
4)-Bạch-Tĩnh-Thủy Kim-Cương.
5)-Xích-Thanh-Hoả Kim-Cương.
6)-Định-Trừ-Tai Kim-Cương.
7)-Tử-Hiền Kim-Cương.
8)-Đại-Thần-Lực Kim-Cương.
Bốn vị Bồ-Tát và Tám vị Kim-Cương này, theo
điển tích ở trong các kinh thi có nhiều thuyết
khác nhau, xong đại ư là nói những bậc thần
đă phát Bồ-Đề Tâm, đem thần lực mà
hộ-tŕ Phật Pháp.
BỒ TÁT
(Bodhisattva) Các vị đại
Bồ Tát đối với trên th́ cầu được
đạo Phật, đối với dưới th́
cầu giáo hoá chúng sinh.
Đối với tâm thân ḿnh, chư Bồ
Tát phát bốn điều nguyện lớn sau
đây :
1)- Tâm như đại địa. 2)-Tâm như kiều thuyền : 3)-Tâm như đại hải.4)-Thân
như hư không
Đối với chúng sinh, chư Bồ Tát phát bốn
điều thệ nguyện lớn như sau :
1)- Ai chưa được độ, th́ khiến
được độ.
2)- Ai chưa hiểu, th́ khiến
được hiểu.
3)- Ai chưa được an, th́
khiến được an.
4)- Ai chưa được niết-bàn th́ khiến
được niết bàn.
-Di Lạc Bồ Tát :
Di-Lạc Bồ Tát tiếng Phạn gọi là Maitreya
Bodhisattva phiên dịch ra, theo nghĩa th́ gọi là
A-Dật-Da (Adjita), căn cứ theo lời Thích Ca Mầu Ni
nói ra khi ngài thuyết pháp, th́ hiện nay Đức
Di-Lạc Bồ-Tát c̣n ở trên tầng trời Đâu-Suất,
đợi đến ngày giáng sinh làm người ở
trần gian để tu thành Phật, tức là một
vị Phật tương lai nối sau đức Thích-Ca
Mầu-Ni.
Đức Di-Lạc Bồ-Tát tuy lúc chưa thành Phật
vẫn lấy ḷng từ bi mà phổ độ chúng sinh cho
nên người ta thờ Ngài cũng như thờ một
vị đă thành Phật. Thường ở chùa
người ta thờ Đức Di-Lạc ngồi
giữa, bên tả có Đức Pháp-Hoa-Lâm Bồ Tát, bên
hữu có đức Đại Diệu Tướng Bồ
Tát, gọi chung là Di-Lạc tam tôn.
-Quán-Thế-Âm Bồ-Tát : Kinh Pháp Hoa nói : Khổ-năo chúng sinh,
nhất tâm xưng danh Bồ Tát, tức thị quan kỳ
âm thanh, giai đắc giải thoát. Dĩ
thị danh Quán-Thế -Âm. Nghĩa là: những chúng sinh
bị khổ năo mà nhất tâm đọc đến
Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức th́ ngài nghe âm thanh của
chúng sinh mà độ cho được giải thoát. Bởi thế gọi tên ngài là Quán-Thế-Âm.
Đức Quán-Thế-Âm mà có cái danh hiệu ấy là do
một đức Phật đă thụ-kư cho Ngài, cho nên
chính Ngài đă nói trong Kinh-Lăng-Nghiêm: "Về vô số
kiếp đời xưa có Đức Phật ra
đời hiệu là Quán-Thế-Âm Như Lai. Ta đến
trước Phật mà phát Bồ-Đề tâm. Phật
dậy ta theo ba phép : Văn, Tư, Tu,
nghĩa là nghe lời giảng dậy, suy nghĩ về
đạo lư, và tu hành mà vào tam-ma-đề (Samadhi). Phật khen ta chóng được viên-thông pháp-môn
và tức th́ ở ngay chỗ đại hội thụ-kư
cho ta cái hiệu là Quán-Thế-Âm". Như
thế Ngài được lấy cái danh hiệu của
Bản-Sư làm danh hiệu của Ngài.
-Đại-Thế-Chí Bồ-Tát :
Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tiếng Phạn là
(Mahasthanaprâta Bodhisattva), cùng với Quán-Thế-Âm cùng phụ
giúp Đức Phật A-Di-Đà để tế
độ chúng sinh. Trong Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, tán
thán công đức của đức Đại-Thế-Chí
Bồ-Tát rằng: "Ngài đem ánh sáng trí-tuệ soi
khắp hết thẩy, khiến chúng sinh đều thoát
khỏi ba nơi ác-đạo, với sức mạnh vô
thượng".V́ thế ở các chùa người ta
trưng bầy Tượng đức
Đại-Thế-Chí và Đức Quan-Thế-Âm
đứng hai bên tả hữu đức A-Di-Đà
gọi là hai vị Nhiếp-Sĩ.
Hiện nay ở
Bắc Việt, chùa Tây Phương, thuộc phủ
Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây có pho tượng Tuyết
sơn, tạc rất khéo, và chùa Bút Tháp thuộc phủ Thuận
Thành, tỉnh Bác Ninh có pho tượng Tuyết Sơn
cũng rất mỹ thuật. hai pho
tượng ấy thật rất đáng chiêm ngưỡng.
Trong chùa Đậu thuộc
Quận Thường Tín, tỉnh Hà Đông, cách Hà-Nội có
25 cây số về phía nam, có hai pho tượng đặc
biệt đó là hai vị : Vũ Khắc Minh và Vũ
khắc Trường hai chú cháu đều tu đắc
đạo cách đây trên 300 năm, hiện toàn thân xá
lợi đang thờ tại chuà Đậu, mà du khách trong
nước cũng như quốc tế đều t́m
đến chiêm ngưỡng, Cũng tại chùa Đậu
c̣n thấy thờ ở nhà hành lang có 18 vị A-La-Hán ở
hai bên dẫy nhà Hành lang.
II .Cách chọn Tôn
Tượng Phật để chiêm bái
“Làm thế
nào để biết một Tôn tượng Phật, Bồ
Tát được tạo, họa đúng pháp.”
Người Phật tử luôn luôn dựa vào
kinh điển và lời hướng dẫn của chư Tăng, Ni và các vị Thiện tri thức
để tu học. Vậy có
kinh sách sau đây đề cập đến việc đúc,
vẽ, điêu khắc tượng Phật, Bồ tát:
- Phật Thuyết Tạo Tượng
Lượng Đạc Kinh Giải (Đại Tạng Tập
21)
-
Phật Thuyết Tạo Tượng Lượng
Đạc kinh (Đại Tạng, Vạn Tục Tạng
87)
-
Phật Thuyết Tạo Lập H́nh Tượng
Phước báo Kinh (Đại Tạng Tập 16) c̣n gọi
là: Phật Thuyết Tác Phật H́nh Tượng,
Ưu Điền Vương Tác Phật H́nh Tượng
Kinh, Tạo Tượng Công đức Kinh nói đầy đủ
là Đại Thừa Tạo Tượng Công đức
Kinh.
-
Tượng Pháp Quyết Nghi Kinh (Đại
Tạng phần Nghi Ngụy), nhưng Tông
Thiên Thai cho là kết tinh của Kinh Niết Bàn
nên hay dẫn dụng.
Tôn tượng
Phật có mặt đầu tiên và duyên do như sau:
Đức
Thế Tôn khi tại thế đă lên cung trời Đao Lợi
hai (2) lần: Lần đầu là Thuyết Kinh Địa
Tạng và lần thứ nh́ là để báo ân Thân Mẫu là
Bà Ma Da thuyết kinh Ma Ha Ma Da trước khi ngài nhập Niết
Bàn. Trong lần thứ hai nầy kéo dài suốt
kỳ hạ 9 tuần lễ.
Ngài đă dẫn theo chư vị Bồ Tát, A La Hán và Đại
Đệ Tử đồng thời cũng đă dặn ḍ
chư vị Đệ tử ở lại thế gian cần
phải tu hành Phật Pháp tinh tấn, dũng mănh… Như thường
lệ hằng ngày đúng 4 giờ sáng chư
vị Đệ tử của đức Phật thức
dậy và đến bái yết đức Thế Tôn, nhưng
nay lại không thấy được h́nh bóng của Ngài, nên
sự tưởng nhớ càng ngày càng gia tăng thắm thiết. V́ vậy, một số đệ
tử của Ngài đă lấy đất sét nặn
h́nh tượng Đức Bổn Sư để chiêm bái
tạm thời. Lúc
ấy có một vị đệ tử tại gia là vua Ưu
Đà Diên (tức Ưu Điền) cũng cảm thấy
rất nhớ Phật nên phát tâm nguyện sẽ tạo tượng
đức Phật. V́ là
Quốc Vương nên Vua có nhiều tiền của và phương
tiện, lúc đó tại Thiên giới có vị Tỳ Thủ
Yết Ma, vị nầy là bề tôi của Trời Đế
thích, ngài có thần thông nên biến hóa vô cùng và là vị Thiên
Thần trông coi về việc xây dựng, đă cảm ứng
được tấm ḷng ngưỡng mộ đức
Phật của những người đệ tử của
Phật ở dương thế, nên Ngài đă biến hóa
thành một người thợ xây dựng xuống trần
gian, và người thợ nầy là một cao thủ đắp
tượng có tay nghề bậc nhất.
Khi đă đầy đủ thiện nhơn, đúng
vào ngày Đức Phật Đản Sanh bắt đầu
công tác tạo tượng, trong một thời gian ngắn
đă hoàn tất. Sau khi
hoàn thành, Tôn Tượng đă phóng ra ánh sáng. Vừa lúc ấy đức
Bổn Sư cũng hoàn măn Pháp hội rất thù thắng tại
cung trời Đao lợi.
Ngài tán thán công đức vua Ưu Điền đă phát
tâm tạo Tôn Tượng, trước đại chúng đông
đủ chư vị Thiên Chủ, Long Thiên, Hộ Pháp… Đức
Phật nói: “Nếu có người dùng đất, gỗ,
nhựa, vàng, bạc, đồng, sắt, hội họa, điêu
khắc, đúc, đắp, thêu h́nh tượng đức
Phật dù nhỏ nhất cũng phải bằng đầu
ngón tay út, cần nhất là phải làm đúng như pháp, th́
công đức rất to lớn.
Khi đức Phật từ cung trời Đao Lợi
trở về lại nhân gian, vua Ưu Điền đă đem
Tôn Tượng đến dâng lên đức Phật. Lúc nầy tất cả mọi người
có mặt đều kinh ngạc v́ thấy Tôn Tượng
cử động: chấp hai tay; đứng
dậy với vẻ hết sức cung kính đức Phật
và đảnh lễ đức Bổn Sư ba (3) lạy. Tất cả đệ
tử của đức Phật gồm cả Tăng lẫn
Tục đều kinh hăi và tán thán không ngớt. Khi đó đức Bổn Sư
nói với Tôn Tượng: “Nhà ngươi trong đời vị
lai, Phật sự phải đảm trách rất nặng nề
và lớn lao.
Sau khi ta diệt độ, tất cả
đệ tử của Ta đều phó thác cho Ngươi.”
Đức Phật lại nói với vua Ưu Điền:
“Theo pháp của ta, Ông là người đầu tiên làm đúng
quy tắc, chưa có một ai như Ông cả. Việc làm nầy khiến cho chúng
sanh có niềm tin vững chắc, nhiều phước đức
và thiện căn tăng trưởng.”
Trên đây
là tóm tắt duyên khởi về sự có mặt của Tôn
Tượng Phật đầu tiên trên thế gian nầy và
lư do tại sao người Phật tử chúng ta thấy tượng
Phật là như thấy Phật sau khi đức Phật
nhập diệt.
Đại cương nội
dung kinh tạo tượng, đức Phật đă dạy
những ǵ là quan trọng nhất?
Thiết nghĩ,
mỗi chữ trong kinh tạng Phật giáo đều quan
trọng như nhau. Bởi v́ nếu xa
kinh một chữ là đồng với ma thuyết. Hơn
nữa, Cổ nhân đă dạy rằng: Tùng lai tu Phật quả
giả, lục độ vi tiên. Thành Phật nhân giả, tạo
tượng đệ nhất.
Nghĩa là: từ xưa
tới nay, người tu muốn đắc quả Phật,
lấy pháp lục độ làm đầu. Nhân để thành Phật,
việc tạo tượng là trên hết. Nhưng trong Kinh Phật Thuyết
Tạo Tượng Lượng Đạc, do Ngài xá Lợi
Phất thỉnh vấn, đức Phật đă dạy
những điểm chính như sau:
1) Kích
thước: Từ đỉnh
đầu xuống tận ḷng bàn chân, phân; tấc kích thước
đều
có quy định. Chiều cao, bề
ngang, lớn nhỏ một chút cũng không được
làm sai, phải như kinh, như giáo, như pháp. Các nhà điêu khắc,
đúc tạo, hội họa tượng Phật không thể
tùy tiện được.
2) Một
Tôn tượng mà kích tấc, tỷ lệ không chuẩn xác
th́ Chánh Thần không chịu
ở để hộ tŕ. Ngược lại tà ma, quỷ mị
ở, giảm thiểu những điều lành và tăng
thêm những điều bất tường nên ma quỹ tự
do hành động, muốn làm ǵ th́ làm.
Sở dĩ bị như vậy là v́ Pháp thân
chư Phật rất là rộng lớn từ vô lượng
kiếp đến nay, từ trên trời, nhân gian, hang rồng,
động ma, bốn (4) loài thai, noăn, thấp, hóa sanh, các loài
có vảy, có mai, có cánh, có lông… không có nơi nào mà Như Lai
không đến. Nên đă hiển
thị rơ 32 tướng viên măn và 80 vẻ đẹp để
chúng sanh trông thấy là phát tâm quay về với tự tánh,
tu hành chứng đắc được Kim cang thân. Nếu tạo tượng không đúng
phép, kích thước, tỷ lệ không chuẩn xác nên Long
Thiên, Hộ Pháp không phát nguyện hộ tŕ, chư Thần,
chư Thiên tướng cũng không thủ hộ, nên các loại
tà ma, tà tinh, tà mị v.v…đă vào ở trong tượng để
gây những sự bất tường. Đó cũng là lẽ
tự nhiên.
Tượng Phật và Bồ Tát
bán thân có thể thờ phụng và chiêm bái được
không?
Theo kinh “Tượng
Pháp Quyết Nghi” tức là cuốn kinh giải đáp những
nghi ngờ trong thời tượng pháp, là thời kỳ
ở giữa chánh pháp và mạt pháp có dạy rằng: “Tuyệt
đối không được tạo, họa tượng
bán thân, hoặc chỉ tạo họa bộ phận đầu
mặt v́ làm như vậy là phá hư 32 tướng trang
nghiêm viên măn của chư Phật và Bồ Tát.” Mặc dầu những nhà tạo
tượng có thiện tâm, cũng như Phật tử lễ
bái những tượng Phật, Bồ Tát không đủ tướng
trang nghiêm với ḷng rất mực thành kính đi nữa th́
công đức và kết quả cũng không được
như ư.
Tỷ lệ
và kích thước cũng như nghệ thuật tạo tượng
Phật, Bồ Tát có khác với nghệ thuật tạo tượng
người thế tục hay không? Ở đây chúng ta
không bàn về nghệ thuật điêu khắc mỹ thuật
thế tục. Chúng tôi sẽ
cố gắng tŕnh bày sơ lược kích thước theo kinh “Tạo tượng Lượng Đạc”
để Phật tử chúng ta có một khái niệm về
những đặc điểm của một tôn tượng
Phật hay Bồ Tát.
Đầu
tiên chúng ta nên biết qua về hệ thống đo chiều
dài của Ấn Độ ngày xưa được dùng
trong những kinh sách Phật giáo như: Luận Đại Tỳ Bà Sa, Luận
Tạp A Tỳ, Luận Câu Xá, Kinh Phương quảng Đại
Trang Nghiêm, Kinh Phật Bổn Nguyện Tập và c̣n nhiều
nữa, tóm tắt như sau:
Từ nhỏ
đến lớn: Vi trần, đầu sợi tóc, con kiến,
hạt cải, mạch (hạt lúa), túc = 2 hạt lúa, chỉ
tiết (lóng tay = 4 túc), kiệt thủ (gang tay = 12 lóng tay),
Chửu (chỏ = 2 gang tay), thỏa
= 1 sải tay = 120 lóng tay. Đại
khái là như vậy, bởi v́ kích thước đo chiều
dài xử dụng trong kinh điển Phật giáo không giống
nhau giữa Ấn Độ và Trung quốc nên đă thay đổi
rất nhiều qua các triều đại lịch sử. Căn
cứ theo kinh Tạo Tượng Lượng Đạc
do Ngài Công Bố Tra dịch, dùng lóng tay giữa của ngón
tay giữa co lại, phần đầu ngoài hai chỉ đốt
lóng tay giữa là một tấc (thốn). Sau đây là kích thước của
một số bộ phận quan trọng trong một tôn tượng:
1) Nhục
kế, phần có tóc, cổ mỗi bộ phận cao 4 lóng tay. Tổng cọng
tất cả là 12 lóng tức 1 gang tay.
2) Khuôn
mặt, từ ranh giới yết hầu đến chấn
thủy, từ chấn thủy đến rốn, từ rốn
đến âm tạng mỗi phần dài 1 gang tay.
Như vậy phần thân trên từ nhục
kế đến âm tạng dài tổng cọng là 5 gang tay.
3) Xương
háng, xương bánh chè ( đầu gối), từ mắt
cá xuống thẳng ḷng bàn chân,
mỗi
bộ phận dài 4 lóng tay. Tổng
cọng là 1 gang tay.
4) Bắp
vế, cổ chân mỗi bộ phận dài 2 gang tay.
Như vậy tổng cọng phần thân dưới
là 5 gang tay.
Hai phần thượng thân và hạ thân cọng
lại là 10 gang, mỗi gang là 12 lóng, tổng chiều cao là
120 lóng tay. Đây là kích thước
chiều cao căn bản. Nếu
muốn tôn tượng to, nhỏ th́ cứ theo
tỷ lệ ấy mà tăng hoặc giảm.
Trong kinh điển
cũng hướng dẫn rất rơ ràng và chi tiết về
các kiểu tôn tượng như: tượng đứng,
ngồi, tượng Bồ Tát, tượng hiển tướng
phẩn nộ để hàng phục ma quân v.v…Chắc rằng
các nhà hội họa, điêu khắc, tạo tượng
Phật Giáo đều rất am tường vấn đề
nầy. Do đó để tránh
được sự nhầm lẫn giữa tượng
của tín ngưỡng nhân gian và tôn tượng của Phật
giáo để chiêm bái, một hiển tướng không thể
thiếu là nhục kế của Đức Phật - Nhục kế là khối thịt
trên đỉnh đầu nhô lên như búi tóc, h́nh thể tương
tự như cái chén úp lại, đây là tướng tốt
thứ 32 của đức Phật, và cũng là vẻ đẹp
thứ nhất trong 80 vẻ đẹp đó là “Vô Kiến
Đảnh Tướng”. Trên đỉnh
Nhục kế của đức Phật có một điểm
phát ra ức vạn ánh sáng, lớp lớp ánh sáng lần lượt
chiếu rọi cho tới thượng phương vô lượng
thế giới mà tất cả trời, người và Thập
địa Bồ tát cũng không thể thấy được,
cho nên gọi là Vô kiến Đảnh Tướng. Phật tử chúng ta thường
tụng Thủ Lăng Nghiêm, phần trước Thần
chú có các câu: Tùng nhục kế trung, dơng bá bảo quang, quang
trung dơng xuất… Vô kiến đảnh tướng phóng
quang, Như Lai tuyên thuyết thần chú… Ngoài ra khuôn mặt
mà chúng ta thường gọi là “Diện” của tôn tượng
Phật và Bồ tát cũng được chỉ dẫn rất
rơ ràng trong kinh như diện của tượng Phật phải
tṛn đầy như mặt trăng (Như Lai măn nguyệt
diện), c̣n diện của Bồ Tát như h́nh quả trứng,
diện của Minh Vương như h́nh vuông.v.v…
Muốn thỉnh
một tôn tượng đúng pháp, nên t́m ở đâu?
Theo sự hướng dẫn
trong Thiền Môn Pháp Ngữ Tân Tri, Phật tử chúng ta muốn
thỉnh Tôn tượng Phật hay Bồ Tát để chiêm
bái, quán tưởng trong khi tu học, chúng ta nên đến
các ngôi chùa Phật giáo có cho thỉnh tượng, những đạo
tràng chuyên phát hành văn vật của Phật giáo hoặc
những tiệm chuyên cho thỉnh tôn tượng, pháp khí,
pháp cụ để t́m một tôn tượng tương đối
y như pháp, đừng v́ chỉ thích một bộ phận
nào đó mà bỏ qua những thiếu sót của tướng
tốt và vẻ đẹp, để tránh gây nên những
chướng ngại trên con đường tu học lâu dài
của chính bản thân ḿnh.