Thơ Chữ Hán Nguyễn Du II

Trịnh Nguyễn Đàm Giang

Biên Soạn - Diễn Dịch Thơ



Thơ Chữ Hán Nguyễn Du
Bắc Hành Tạp Lục - Phần II



Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần I

Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III

Bắc Hành Tạp Lục Phần II

180    Tương Âm Dạ
181    Đăng Nhạc Dương Lâu
182    Hoàng Hạc Lâu
183    Hán Dương Văn Diểu
184    Nhiếp Khẩu Đạo Trung
185    Lư Gia Trại Tảo Phát
186    Vũ Thắng Quan
187    Tín Dương Tức Sự
188    Ngẫu Hứng
189    Độ Hoài, Hữu Cảm Hoài Âm Hầu Tác
190    Độ Hoài, Hữu Cảm Văn Thừa Tướng
191    Hà Nam Đạo Trung Khốc Thử
192    Cựu Hứa Đô
193    Âu Dương Văn Trung Công Mộ
194    Bùi Tấn Công Mộ
195    Hoàng Hà
196    Hoàng Hà TrởLạo
197    Tỉ Can Mộ
198    Trở Binh Hành
199    Kê Thị TrungTừ
200    Nhạc Vũ Mục Mộ
201    Tần Cối Tượng I
202    Tần Cối Tượng II
203    Vương ThịTượng I
204    Vương ThịTượng II
205    Đồng Tước Đài
206    Thất Thập Nhị Nghi Trủng
207    Lạn Tương Như Cố Lư
208    Hàn Đam Tức Sự
209    Hàn Tín Giảng BinhXứ
210    Liêm Pha Bi
211    Tô Tần Đ́nh I
212    Tô Tần Đ́nh II
213    Dư Nhượng Chủy Thủ Hành
214    Dự Nhượng Kiều


180/249

Tương Âm Dạ (1)

Măn mục giai thu sắc
Măn giang giai nguyệt minh
Tịch liêu kim dạ vọng
Thiên trích cổ nhân t́nh (2)
Thu thủy ṭng tây lai
Mang nhiên thông Động Đ́nh
Tĩnh dạ tức ngâm khiếu
Vô sử giao long kinh

Đêm Ở Tương Âm

Đâu đâu cũng sắc thu
Đầy sông ánh trăng sáng
Đêm lặng nh́n cảnh vật
Nhớ người xưa bị đày
Nước thu từ phương tây
Mênh mang đổ Động Đ́nh
Đêm vắng chẳng ngâm nữa

Kẻo rắn rồng hoảng kinh

Chú thích:

(1)   Tương Âm: tên một huyện tỉnh Hồ Bắc ở phía đông sông Tương.

(2)  Thiên trích: đổi đi xa để khiển trách. Tác giả nhắc đến chuyện Khuất Nguyên bị vua đầy ra Giang Nam, nay là vùng Tương Âm.

181/249

Đăng Nhạc Dương Lâu (1)

Nguy lâu trĩ cao ngạn
Đăng lâm hà tráng tai !
Phù vân Tam Sở tận (2)
Thu thủy Cửu giang lai (3)
Văng sự truyền tam túy (4)
Cố hương không nhất nhai
Tây phong ỷ cô hạm
Hồng nhạn hữu dư ai !

Lên Lầu Nhạc Dương

Lầu cao ngất bên bờ dựng đứng
Lên coi thấy cảnh hùng tráng thay
Mây tỏa che cả ba nước Sở
Nước thu từ chín sông đổ về
Tích xưa kể chuyện say ba lần

Cố hương chỉ thấy một vệt trời

Gió tây cô quạnh tựa lan can
Tiếng chim hồng, nhạn gợi thêm buồn !

Chú thích:

(1)    Nhạc Dương Lâu: tên một ṭa lầu ở cửa tây thành huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam do Trương Duyệt đời Đường xây, đối mặt với hồ Động Đ́nh.

(2)   Tam Sở: ba miền của nước Sở, Tây Sở, Đông Sở, và Nam Sở; nay thuộc phần đất tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang.

(3)   Cửu Giang: có chín ḍng sông đổ vào hồ Động Đ́nh, sông Phong, sông Nguyên, sông Tương, sôngTư, sông Dương Tử...

(4)   Tam túy: ba lần say. Lữ Nham (hay Lă Nham) tự Đồng Tân, có hiệu Thuần Dương, khi qua lầu này có hai câu thơ:

Tam túy Nhạc Dương nhân bất thức
Lăng ngâm phi quá Động Đ́nh hồ.

(Ba lần say ở lầu Nhạc Dương không ai biết.
Hát vang bay qua hồ Động Đ́nh)

182/249

Hoàng Hạc Lâu

Hà xứ thần tiên kinh kỷ th́
Do lưu tiên tích thử giang mi ?
Kim lai cổ văng Lư sinh mộng (1)
Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi (2)
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu
Nhăn trung thảo thụ thượng y y
Trung t́nh vô hạn bằng thùy tố
Minh nguyệt thanh phong dă bất tri

Lầu Hoàng Hạc

Thần tiên đâu đó bấy lâu nay
Tích xưa lưu lại bến sông này
Lư nhân một giấc mộng vẫn thế
Thơ Hạo lầu không hạc đă bay
Ngoài song khói sóng vẫn bao la
Nh́n xem cây cỏ chẳng khác xa
Biết ngỏ cùng ai t́nh dào dạt
Trăng trong gió mát hiểu ǵ ta

Chú thích:

Hoàng Hạc Lâu: lầu Hoàng hạc ở Vơ Xương, thuộc thị trấn Vơ Hán, tỉnh Hồ Bắc. Tương truyền Phí Huy Văn khi lên tiên từng cưỡi hạc vàng đỗ ở đây.

Thôi Hạo;: (701-754) nhà thơ đời Đường, người Biện Châu tỉnh Hà Nam nổi tiếng v́ bài đề Hoàng Hạc Lâu.

(1)     sinh mộng: mộng chàng Lư. Lấy tích từ một chuyện ngắn đời Đường kể chuyện Lư sinh thi hỏng, nghỉ trọ ở Hàn đan, gặp đạo sĩ cho mượn cái gối để nằm ngủ. Lúc bấy giờ chủ quán đang nấu nồi kê, Lư sinh nằm ngủ thấy ḿnh lấy con gái họ Thôi, rồi đỗ tiến sĩ, bao lần thăng quan tiến chức, cuối cùng làm đến tể tướng, hưởng đủ mọi vinh hoa phú quư trên đời, nhưng đến khi tỉnh dậy nồi kê vẫn chưa chín.

(2)   Hạc khứ lâu không: hạc bay lầu trống. Lấy ư trong hai câu thơ của Thôi Hạo:

Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ.
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu.

Tản Đà dịch:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu.
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu c̣n trơ.

183/249

Hán Dương Văn Diểu

Bá Vương trần tích thuộc du du
Hán thủy thao thao trú dạ lưu
Qui Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn
Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu (1)
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ (2)
Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu (3)
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ (4)
Bạch tần hồng liễu măn đinh châu

Ngắm Cảnh Chiều Ở Hán Dương

Vua xưa dấu cũ đă xa rồi
Triền miên sông Hán ngày đêm trôi
Hai bờ Qui Hạc nh́n nhau măi
Tiên đă đi rồi lầu bỏ không
Cây cỏ tiếng truyền nhờ thơ cũ
Chiều tà nhớ nước mối sầu chung
Nghe như tiếng sáo trong đêm vọng
Trắng tần đỏ liễu đầy bên sông


Chú thích:

Hán Dương: một huyện thuộc tỉnh Hồ bắc, cách Vơ Xương một con sông. Vơ Xương là nơi có lầu Hoàng Hạc.

(1)  Trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu:

T́nh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu

(Hán Dương sông tạnh cây bày,
Băi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non. 

Tản Đà)

(2) Ư Nguyễn Du muốn nói nhờ bài thơ Hoàng Hạc ấy mà cây Hán Dương, cỏ băi Anh Vũ truyền lại đến ngày nay.

(3) Trong bài Hoàng Hạc Lâu c̣n có câu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị.

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn.

Tản Đà)

(4) Ư này lấy trong câu thơ của Lư Bạch:

Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch.

(Trong lầu Hoàng Hạc có tiếng sáo ngọc thổi)

184/249

Nhiếp Khẩu Đạo Trung

Thu măn phong lâm sương diệp hồng
Tiểu oa hào xuất đoản ly đông
Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại
Nhất đái mao từ dương liễu trung
Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng
Bạch đầu thiên lư tẩu thu phong
Mang nhiên bất biện hoàn hương lộ
Xúc mục phù vân xứ xứ đồng

Trên Đường Đi Nhiếp Khẩu

Giữa thu rừng phong đỏ đượm sương
Chó sủa nghe từ giậu phương đông
Dăm con gà lợn ngoài đám lúa
Một dăy nhà tranh xuôi hàng dương
Mộng về Hồng Lĩnh quá năm rồi
Đầu bạc ngàn dặm hứng gió thu
Đường về quê cũ sao mờ mịt
Nh́n đâu cũng chỉ thấy mây trôi

Chú thích:

Nhiếp Khẩu: thuộc huyện Hoàng Bi, tỉnh Hồ Bắc.

185/249

Lư Gia Trại Tảo Phát

Hiểu sắc hà thương mang
Sơ nhật ẩn sơn phúc
Lộ thượng nhân kư hành
Chi đầu điểu do túc
Vạn cổ nhất hồng trần
Kỳ trung giai lục lục
Khuyển phệ trúc thôn trung
Định hữu cao nhân ốc

Buổi Sáng Từ Nhà Họ Lư Ra Đi

Sớm mai c̣n mờ mịt
Mặt trời c̣n sau núi
Đường có dăm người đi
Đầu cành chim vẫn ngủ
Muôn thuở đám bụi trần
Mọi người đều long đong
Chó sủa nơi khóm trúc
Chắc cao sĩ ở đây


186/249

Vũ Thắng Quan

Cốc Khẩu hùng quan Vũ Thắng danh (1)
Cổ thời thử địa hạn Man Kinh (2)
Nhất binh bất thiết tự hùng tráng
Bách tải thừa binh vô chiến tranh
Bán nhật thụ âm tùy mă bối
Thập phần thu ư đáo thiền thanh
Thương tâm thiên lư nhất hồi thủ
Măn mục Sở sơn vô hạn thanh

Ải Vũ Thắng

Ải hùng Vũ Thắng nơi Cốc Khẩu
Ngày xưa phân giới đất Man Kinh
Chẳng một lính quân vẫn hùng tráng
Trăm thời yên ổn không chiến tranh

Nửa ngày bóng mát che lưng ngựa
Mười phần thu lộ tiếng ve thanh
Cảm thương ngàn dặm quay đầu lại
Núi Sở rặng dài trông ngát xanh


Chú thích:

Vũ Thắng Quan: cửa ải Vũ Thắng, ở phía nam huyện Tín Dương, tỉnh Hà Nam.

(1)Cốc Khẩu: một núi thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam.

(2) Man Kinh: chỉ vùng đất nước Sở (nay thuộc các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang, Giang Tô. Thời xưa nước Sở gọi là Kinh và là đất Nam Man, nên thường gọi là Man Kinh.

187/249

Tín Dương Tức Sự

Hà Nam thủ Tín Dương (1)
Thiên hạ thử trung ương
Phiến thạch tồn Thân quốc (2)
Trùng sơn hạn Sở cương
Mă minh tư tự mạt
Dân thực bán tỳ khang
Bạch phát thu hà hạn
Tây phong biến dị hương

Viết Ở Tín Dương

Hà Nam nắm trọn đất Tín Dương
Đích thực trung tâm của toàn vương
Đá kia c̣n dấu: Thân một quốc
Núi dài giới hạn nước Sở cương
Ngựa hí kêu đ̣i ăn lúa thóc
Dân th́ ăn nửa tấm cám thôi
Ḿnh ta tóc bạc nhuốm bao thu
Gió tây thổi khắp chốn quê người

Chú thích:

(1)   Tín Dương: tên một huyện thuộc tỉnh Hà Nam; ở đây có bức thành cổ cũng gọi là thành Tín Dương.

(2)    Thân quốc: nước Thân, một nước cũ do Vơ Vương nhà Chu lập ra.

188/249

Ngẫu Hứng

Tín Dương thành thượng động bi già
Thu măn Hà Nam bách tính gia
Vạn lư hương tâm hồi thủ xứ
Bạch vân nam hạ bất thăng đa !

Ngẫu Hứng

Tín Dương ảo năo tiếng kèn xa
Thu tới Hà Nam trăm nóc nhà
Vạn dặm thương quê ngoảnh nh́n lại
Mây trắng trời nam thật bao la !

189/249

Độ Hoài Hữu Cảm Hoài Âm Hầu Tác

Tầm thường nhất phạn báo thiên câm (kim) (1)
Ngũ tải quân thần phận nghị thâm
Thôi thực giải y nan bội đức (2)
Tàng cung phanh cẩu diệc cam tâm (3)
Bách man khê động lưu miêu duệ (4)
Lưỡng Hán sơn hà biến cổ câm (kim)
Trù trướng giang đầu tư văng sự
Đoạn vân suy thảo măn Hoài Âm

Qua Sông Hoài Nhớ Hoài Âm Hầu

Cơm thường một bữa đền ngh́n vàng
Năm năm tôi chúa nghĩa nặng mang
Nhường cơm sẻ áo ơn nhớ măi
Treo cung giết chó cũng cam tâm
Ḍng giống Man khê c̣n tồn tại
Lưỡng Hán núi sông biến đổi rồi
Buồn bă bên sông nhớ chuyện cũ
Mây thưa cỏ yếu đất Hoài Âm

Chú thích:

Hoài Âm hầu: tức Hàn Tín đời Hán. Ông người đất Hoài Âm, nhờ Tiêu Hà tiến cử, được phong đại tướng, trong năm năm giúp Hán Cao tổ lập được nhiều công trạng, được phong Tề vương, sau đổi thành Sở vương. Về sau có người tố cáo oan cho ông là mưu phản, Hán Cao tổ giả vờ đi chơi đất Vân Mộng, bắt về giáng làm Hoài Âm Hầu. Sau bị Lă Hậu giết ba họ.

(1)      Hồi trẻ, Hàn Tín nhà nghèo, gặp bà Xiếu Mẫu cho ăn một bữa cơm. Lúc làm Sở vương, Tín vời Xiếu Mẫu đến trả ơn ngh́n vàng.

(2)   Nhắc lại câu nói của Hàn Tín: “Vua Hán trao ấn thượng tướng cho ta, cấp cho mấy vạn quân, cởi áo cho mặc, nhường cơm cho ăn, ta nói điều ǵ vua đều nghe, bàn kế ǵ vua đều dùng, nên ta mới được như thế này”.

(3)   Đây là thủ đoạn của các ông vua gian hùng đờ i phong kiến. Đánh bại địch rồi th́ giết các công thần, sợ họ cướp mất ngôi vua, cũng như săn được mồi rồi th́ cất cung giết chó, không dùng nữa.

(4)   Tương truyền khi Hàn Tín bị nạn, hai người bạn là Tiêu Hà và Khoái Triệt giấu nàng hầu của Tín đă có mang vào trong rừng núi phương nam, nên sau này họ Hàn mới c̣n ṇi giống.

190/249

Độ Hoài Hữu Cảm Văn Thừa Tướng

Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên
Thừa tướng cô trung vạn cổ truyền
Nhất độ Hoài Hà phi cố vũ (1)
Trùng lai Giang Tả cánh hà niên ? (2)
Ai trung xúc xứ minh kim thạch (3)
Oán huyết qui thời  hóa đỗ quyên (4)
Nam bắc chí kim vô dị tục (5)
Tịch dương vô hạn văng lai thuyền

Qua Sông Hoài Nhớ Văn Thừa Tướng

Núi sông phong cảnh vẫn như nguyên
Tướng Thừa danh tiếng vẫn lưu truyền
Một bước qua Hoài sang nước lạ
Tái hồi Giang Tả ngóng từng niên
Tâm đau thơ viết lời vàng đá
Máu oán trở về hóa chim quyên
Nam bắc giờ không chia ĺa nữa
Chiều tà xuôi nguợc trẩy ghe thuyền

Chú thích:

Văn Thừa Tướng: tức Văn Thiên Tường (1236-1282), hiệu Văn Sơn, người đời Tống. Khi quân Nguyên vượt sông Hoài đánh xuống nam, Thiên Tường khởi binh chống cự, được phong là Hữu Thừa Tướng, không may bị bắt, giam ở Yên Kinh bốn năm, không khuất phục bị giết. Mới 47 tuổi. Bài Chính Khí Ca của ông khẳng khái, lẫm liệt được nhiều người truyền tụng.

(1)  Hoài Hà: ranh giới giữa Kim và Nam Tống. Tống Cao Tông (Triệu Cấu) là vua đầu tiên của Nam Tống kư ḥa ước với quân Kim, cắt Trung Quốc làm hai, từ sông Hoài trở lên thuộc về Kim.

(2)  Giang Tả: chỉ các đất phía đông hạ du sông Trường Giang (các miền thuộc tỉnh Giang Tô), đây là chỉ đất thuộc Nam Tống.

(3)   Khi Văn Thiên Tường bị bắt, ông có làm hai câu thơ ghi lại cảnh ngộ của ḿnh. Đó là bài Chỉ Nam LụcChỉ Nam Hậu Lục.

(4)  Thơ Văn Thiên Tường có câu:

Ṭng kim biệt khước Giang Nam lộ
         Ḥa tác đề quyên đái huyết quy

(Từ nay cách biệt Giang Nam
        Khi trở về sẽ thành con chim cuốc kêu ra máu)

(5)  Ư câu này nói ngày nay nước nhà đă thống nhất.

191/249

Hà Nam Đạo Trung Khốc Thử

Hà Nam thu bát nguyệt
Tàn thử vị tiêu dung
Lộ xuất luơng phong ngoại
Nhân hành liệt nhật trung
Đồ trường tê quyện mă
Mục đoạn diệt qui hồng
Hà xứ thôi xa hán ?
Tương khan lục lục đồng

Nắng To Trên Đường Đi Hà Nam

Tháng tám thu Hà Nam
Hơi nóng vẫn chưa tàn
Đường đi không cơn gió
Người đi dưới nắng chan
Đường dài ngựa hí mỏi
Cạn mắt t́m cánh hồng
Phu xe từ đâu tới
Nh́n vất vả tương đồng

192/249

Cựu Hứa Đô

Hứa Châu thành, Hán đế đô
Tào thị ư thử di Hán đồ (1)
Thụ thiện đài cơ dĩ bất kiến (2)
Phong vũ dạ dạ do hào hô
Tự cổ đắc quốc đương dĩ chính
Nại hà vụ quả nhi khi cô !
Ngụy thụ Hán thiện, Tấn thụ Ngụy (3)
Tiền hậu sở xuất như nhất đồ
Ngụy vong Tấn tục canh triều đại
Tự thử hất kim kỷ thiên tải
Kỳ trung hưng phế tri kỷ nhân
Nga nga thành điệp hà tằng cải
Thành ngoại, thanh sơn tự cựu th́
Gian hùng soán thiết nhân hà tại ?
Hán nhân tông miếu dĩ vô tung
Ngụy nhân viên lăng diệc đồi bại
Đăng đăng thành trung nhất phiến thổ
Đ́nh ngọ thị nhân xu mại măi
Duy hữu Kiến An nhị thập ngũ niên sự (4)
Nhân khẩu thành bi chung bất hoại
Viễn lai sử ngă đa trầm ngâm
Di xú lưu phương giai cổ câm (kim)
Đột ngột danh thành đương đại đạo
Cự gian đáo thủ ưng hàn tâm

Hứa Đô Cũ

Thành đất Hứa, kinh đô Hán
Họ Tào soán ngôi tại chốn này
Thụ Thiên Đài đâu c̣n nữa
Mưa gió đêm đêm vẫn thét gào
Xưa nay lập quốc thuận chính đạo
Cớ sao khinh góa phụ trẻ thơ
Ngụy cướp ngôi Hán, Tấn cướp Ngụy
Trước sau cùng phát một lối chung
Ngụy suy, Tấn nối qua triều đại
Tự đó đ ến nay trải ngàn năm
Trong ṿng lên xuống biết bao đời
Cao ngất một thành chẳng đổi thay
Ngoài thành núi vẫn xanh như trước
Kẻ gian cướp nước người nào c̣n ?
Tông miếu nhà Hán đà mất dấu
Lăng vườn nhà Ngụy cũng suy tàn
Bát ngát trong thành một khoang đất
Sớm trưa người họp lo bán buôn
Chuyện Kiến An hăm lăm năm đó
Truyền lời c̣n măi trở thành bia
Từ xa ta đến ḷng tư lự
Lưu xú, để thơm chuyện muôn đời
Một thành danh tiếng sát đường đi
Kẻ gian đi qua cũng chột dạ

Chú thích:

Hứa Đô: thuộc huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam. Cuối Đông Hán, Tào Tháo đưa vua Hiến Đế đến đóng đô ở đất Hứa, nên gọi là Hứa Đô.

(1)  Tào thị: Tào Tháo đem vua về Hứa Đô. Sau con của Tào Tháo là Tào Phi bắt vua phải nhường ngôi tại đó.

(2)  Thụ thiện đài: đài nhường ngôi.

(3)   Tào Phi đặt tên nước là Ngụy, sau Tư Mă Viên lại cướp ngôi của Ngụy, đổi tên là Tấn.

(4)   Kiến An: là niên hiệu Hán Hiến Đế. Năm thứ 25 niên hiệu đó, Tào Phi cướp ngôi nhà Hán.

193/249

Âu Dương Văn Trung Công Mộ

Ngũ xích phong bi lập đạo bàng
Tống triều cổ mộ kư Âu Dương
B́nh sinh trực đạo vô di hám
Thiên cổ trùng tuyền thượng hữu hương (1)
Thu thảo nhất khâu tàng thử lạc
Danh gia bát đại thiện văn chương   (2)
Trường tùng chi thảo sinh hà xứ ?
Tiều mục ca ngâm quá tịch dương

Mộ Ông Âu Dương Văn Trung

Bia cao năm thước dựng bên đường
Đời Tống c̣n ghi mộ Âu Dương
Sinh thời ḷng thẳng không ân hận
Ngh́n năm dưới suối vẫn c̣n hương
Nấm cỏ dù thành hang chuột cáo
Có tiếng tăm trong tám văn chương
Thông tốt cỏ chi mọc đâu nhỉ ?
Tiếng ca tiều phu vang tịch dương

Chú thích:

Âu Dương Tu: (1007-1072), tự Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông; người đời Tống, tính trung trực. Sau khi chết được tặng hiệu Văn Trung. Ông là một trong tám nhà văn lớn đời Đường.

(1)   Trùng tuyền: suối vàng.

(2)   Danh gia bát đại: tám nhà văn lớn đời Đường Tống là: Hàn Dũ, Lư Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Cùng, Vương Anh Thạch.

194/249

Bùi Tấn Công Mộ

Đăng đăng thu nguyên khâulũng b́nh
Mộ bi do chí Tấn Công danh
Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ
Bạch cốt thiên niên cách tử sinh
Tấn hữu du vi ưu tướng tướng
Vô phương h́nh mạo yếm đan thanh  (1)
Thượng tâm cận nhật Chiêu Lăng thụ (2)
Nhất đái đề quyên triệt Vị Thành (3)

Mộ Bùi Tấn Công

G̣ đống đồng thu sàn mênh mông
Bia kia ghi rơ mộ Tấn Công
Ḷng son một dạ lưu mới cũ
Xương trắng ngh́n năm chia tử sinh
Tài cao thật giỏi văn cùng vơ
Thân h́nh tướng mạo xấu chẳng sao
Đau ḷng nh́n cảnh Chiêu Lăng mới
Vị Thành khắc khoải tiếng quyên gào

Chú thích:

Bùi Tấn Công: tức Bùi Đô, tự Trung Lập, người đời Đường làm quan dưới triều Đường Hiến Tông, có công dẹp giặc được phong chức Tấn quốc công, làm tể tướng 30 năm. Sau v́ nhóm hoạn quan lộng quyền, ông cáo quan, về nhà ngâm vịnh với các nhà thơ đương thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích.

(1)   Hai câu này lấy ư từ tích của Bùi Độ đề vào bức truyền thần của ḿnh. Bùi Độ tướng mạo b́nh thường nhưng văn vơ toàn tài.

(2)   Chiêu Lăng: tên lăng của Đường Thái Tông ở Thiểm Tây, cách đó có một khu táng các văn thần vơ tướng có công giúp nước. Có lẽ mộ Bùi Độ táng ở đó.

(3)   Vị Thành: ở phía tây Trường An gần Chiêu Lăng.

195/249

Hoàng Hà

Nhất khí mang mang hỗn độn tiền (1)
Kỳ lai vô tế khứ vô biên
Thiên hoàng cự phái cửu thiên lư (2)
Thánh chủ hưu kỳ ngũ bách niên (3)
Hoài cổ vị năng vong Hạ Vũ (4)
Chí kim thùy phục tiễn Trương Khiên ? (5)
Thu trung khả hữu phù sà quá
Ngă dục thừa chi tái thượng thiên (6)

Sông Hoàng

Khí trời đất hỗn độn một bầu
Sông từ đâu đến, chảy đi đâu
Ao trời xuất phát chín ngàn dặm
Điềm lành thánh hiện năm trăm năm
Nhớ công lao vua Vũ nhà Hạ
Thuở này ai khen việc Trương Khiên ?
Giữa thu giá có thuyền bè qua
Th́ ta cũng muốn lên trời như xưa

Chú thích:

Hoàng Hà: con sông lớn thứ hai của Trung quốc, có nhiều phù sa, nước vàng.

(1)   Hỗn độn: h́nh thái vũ trụ khi chưa phân trời đất.

(2)  Thiên Hoàng: tên một v́ sao trên trời, gần sông Ngân Hà. Cũng có nghĩa là ao trời.

(3)   Theo truyền thuyết ngày xưa: Cứ năm trăm năm, nước Hoàng Hà lại trong, đó là diềm có thánh chúa ra đời, thiên hạ được thái b́nh thịnh vượng.

(4)   Vua Vũ nhà Hạ cho đào sông ng̣i thoát nước, trừ nạn lụt cho dân.

(5)   Trương Khiên: người đời Hán, theo Vệ Thanh đánh Hung nô được phong tước hầu.

(6)   Sách Bác Vật Chí chép: sông Thiên Hà (tức Ngân Hà) thông với bể. Có người hàng năm đến.
tháng tám thấy bè đi qua bể, liền cưỡi lên, đi đến một ṭa thành có nhiều người cư ngụ, đàn bà dệt vải, đàn ông dắt trâu uống nước ở ngoài bến. Người ta bảo người ấy đă đi đến sông Ngân Hà, gặp Chức Nữ và Ngưu Lang.

196/249

Hoàng Hà Trở Lạo

Long Môn tây thượng xích vân phù (1)
Khuynh tận Côn Lôn nhất phiến thu (2)
Bách lư tản lưu vô định phái
Nhất ba sực khởi tiện thành châu
Mạch cao thổ cẩu nan vi thực (3)
Lạc ngạnh phiêu b́nh thất tự mưu
Thặng hữu nhân tâm vô quải ngại (4)
Bất phương chung nhật đối phù âu

Mắc Lụt Bên Sông Hoàng Hà

Long Môn mây đỏ nổi phía tây
Nước chốn Côn Lôn thu trút đầy
Trăm dặm tản rộng không phương hướng
Sóng dội từng cơn cồn cát bày
Bánh mạch cẩu hoang sao khó nuốt
Cành trôi bèo nổi khó tính sâu
Chỉ c̣n một tâm nhàn nhă suốt
Cả ngày chẳng ngại ngắm chim âu

Chú thích:

(1)   Long Môn: tên một dăy núi thuộc địa phận tỉnh Hà Nam.

(2)   Côn Lôn: tên một dăy núi ở phía giữa Châu Á. Sông Hoàng Hà bắt nguồn từ núi Côn Lôn.

(3)   Thổ  cẩu: chép theo những tài liệu trong sách của những nhà biên soạn trước th́ đây là con dê đất (?), theo sách Từ Nguyên th́ đó là một loài vật ở nước h́nh giống con dê. Ở đây để chỉ một giống vật lạ do nước lũ mang đến. (Lê Thước, Bùi Kỷ, Chương Chính, Nguyễn Thạch Giang v.v...).

Qua lời giải thích của một vị Bác Sĩ Y Khoa người Mỹ gốc Trung Hoa thông thạo văn chương chữ Trung Hoa th́ thổ cẩu là danh từ chung người Trung Hoa dùng để gọi những con chó lai giống, chó hoang, chó không có chủ (a mutt, a mongrel dog, a wild dog). Tại Trung quốc và nhiều quốc gia vùng Đông Nam Á, thịt chó được dùng làm thực phẩm không phải là chuyện lạ. Nguyễn Du làm bài thơ này trong mùa lũ lụt, thức ăn hiếm có, tất cả phái đoàn đi xứ có lẽ đă được cho ăn một loại bánh ḿ khô cứng làm bằng bột lúa mạch, và thịt chó hoang nấu vội vă có lẽ vừa dai, vừa không nêm gia vị như lối Nguyễn Du đă được ăn từ trước nên ông phải than rằng bánh mạch và thịt chó hoang nấu không nuốt được.

Bản Anh ngữ dịch bởi Bác Sĩ Sue Jong từ nguyên bản bài chữ Hán Hoàng Hà Trở Lạo của Nguyễn Du được kèm theo dưới đây:

Yellow River Overflow

Westward over Dragon Gate crimson clouds were hovering
As autumn descended upon entire Kunlun.
Flowing a hundred miles scattered off course
One wave surging a little isle formed.
Coarse wheat bread and wild dog meat were hard to swallow.
Fallen branches and drifting leaves lost self-control.
Still my leisured heart was bothered not
But delighted in the seagulls all day long.

(4)   Vô quải ngại: kinh phật có câu: Tâm vô quải ngại, ḷng không bận bịu.

197/249

Tỉ Can Mộ

Độn cuồng quân tử các toàn thân (1)
Bát bách chư hầu hội Mạnh Tân (2)
Thất khiếu hữu tâm an tỵ phẫu (3)
Nhất khâu di thực tẫn thành nhân (4)
Mục trung sở xúc năng vô lệ
Địa hạ đồng du khả hữu nhân
Tàm quí tham sinh Ngụy điền xá (5)
Trung lương hồ loạn cưỡng tương phân (6)

Mộ Tỉ Can 

Giả khùng đi trốn được yên thân
Tám trăm chư hầu họp Mạnh Tân
Bảy lỗ tim người không sợ mổ
Một vùng cây cỏ đều thành nhân
Mắt nh́n ḍng lệ chợt tuôn trào
Dưới đất chắc ông vui cùng bạn
Chỉ ngượng Ngụy Trưng ham sống thế
Trung lương vẽ chuyện bàn tào lao

Chú thích:

Tỉ Can: là một người trong hàng chú bác của bạo chúa nhà Ân là Trụ. Ông thường can gián Trụ nên bị Trụ giết.

(1)  Độn cuồng: giả điên bỏ trốn. Trước sự tàn bạo của Trụ, Vi tử bỏ trốn, Cơ tử giả điên, do đó không bị giết.

(2)   Mạnh Tân: tên một bến sông, nay là bến Hà Dương, thuộc tỉnh Hà Nam. Vơ Vương nhà Chu hội quan tám trăm nước chu hầu ở đây để đánh vua Trụ.

(3)   Thất khiếu: bẩy lỗ. Sử kư chép: Tỉ Can can gián vua Trụ, Trụ giận nói: “Ông tự cho ông là thánh, ta nghe nói tim thánh có bẩy lỗ, không biết có thực không?”, bèn giết Tỉ Can để xem tim.

(4)   Thành nhân: thành điều nhân. Khổng Tử nói: “Hữu sát thân dĩ thành nhân” (Tự hy sinh để giữ điều nhân).

(5)   Ngụy điền xá: chỉ Ngụy Trưng đời Đường. Ngụy Trưng trước làm tôi Thái Tử Kiến Thành, anh Thế Dân. Sau Thế Dân giết Kiến Thành lên ngôi vua (tức Đường Thái Tông). Nguy Trưng không chết theo Kiến Thành mà lại thờ Thái tông. Ông ta hay nói thẳng nên Thái tông gọi là “điền xá hán” (lăo nhà quê).

(6)  Trung, lương: Ngụy Trưng chia bầy tôi làm trung thần và lương thần, trung thần là những người trung trực v́ can gián mà bị giết, như Tỉ Can, c̣n lương thần là những người tôi hiền.

198/249

Trở Binh Hành

Kim tương tương, thiết tranh tranh
Xa mă tŕ sâu, kê khuyển minh
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế
Phù lăo huề ấu di nhập thành
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
Hoạt, Tuấn nhị huyện tề xưng binh
Tặc sát quan lại thập bát cửu
Măn thành tây phong xuy huyết tinh
Cánh hữu Sơn Đông, Trực Lệ dao tương ứng
Bạch liên dị thuật đa thần linh (1)
Châu quan văn tặc chí
Khiêu đăng chung dạ tịch dân đinh
Châu biền văn tặc chí
Ma lệ đao kiếm giát giát minh
Châu nhân văn tặc chí
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh
Hành nhân viễn lai bất giải sự
Đản văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh
Hà Nam nhất lộ giai chấn động
Vũ hịch cấp phát như phi tinh
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
Bộ kỵ nhất tung phục nhất hoành
Kỵ giả loan giác cung
Trường tiễn măn hồ bạch vũ linh
Bộ giả kiên đoản sáo
Tân ma thiết nhận huyền chu anh
Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí
Tước trúc vi thương b́ thượng thanh
Đại xa tải cung chước
Tiểu xa trang tiêm đinh
Chung nhật văng lai vô tạm đ́nh
Sổ bách lư địa biến qua giáp
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
Trường tống trường thán, đoản tống mặc
Tiến thoái duy cốc nan vi t́nh
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc
Bất tri tiền lộ hà thời thanh
An đắc phong xa nhật vạn lư
Phi thân nhất tức lai thiên kinh
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang t́ vi thực lê vi canh
Nhăn kiến cơ biểu tử đương đạo
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
Không ốc bích thượng hữu “tra” tự (2)
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
Cầu đồ băo úc thân vi khinh
Hoàng tŕ lộng giáp bất túc đạo (3)
Sảo gia tồn tuất đương tự b́nh
“Dân tử tại tuế bất tại ngă” (4)
Vật đắc khi tâm tế thánh minh
Tạc kiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị (5)
Án hộ cấp túc tô tàn manh
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
Qui lai qui lai vật tác tử
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh

Bài Hành Về Chuyện Binh Đao Làm Nghẽn Đường

Tiếng vàng tiếng sắt loảng xoảng reo
Ngựa xe nhộn nhịp gà chó kêu
Nhà ngèo mở cửa, nhà giầu đóng
Già trẻ lớn bé trốn vào thành
Vùng này trăng sáu đến trăng chín
Hoạt Tuấn hai huyện nổi binh đao
Mười quan giặc giết đến tám chín
Khắp thành gió tây tanh mùi máu
Cánh phải Sơn Đông, Trực Lệ đồng ứng
Bạch liên giáo có nhiều phép thuật linh
Quan hành chính nghe giặc đến
Chong đèn suốt đêm lập sổ đinh
Quan nhà vơ nghe giặc đến
Mài gươm giáo nghe kêu soàn soạt
Người trong châu nghe giặc đến
Chụm năm chụm ba tụ đầu nhỏ to
Khách xa đến nào rơ chuyện chi
Lùi tới đều nghe tiếng súng nổ ngoài thành
Cả vùng đất Hà Nam náo động
Hịch lông gà phát gấp như sao
Cát bụi đầy bay che lấp mặt trời
Lính bộ lính cưỡi ngựa chạy ngang chạy dọc
Quân cưỡi ngựa đeo cung sừng cong
Ống dài chứa tên gài lông trắng
Quân bộ th́ vác giáo ngắn
Gươm đao mới bén, gài dây đỏ
Đinh tráng mới cũng trang cài binh khí
Phạt tre dài làm giáo vỏ c̣n xanh
Xe lớn chất chứa đầy cung dây
Xe nhỏ mang mũi chông nhọn
Suốt ngày đi lại không ngừng nghỉ
Cả hàng trăm dặm đầy binh đao
Đường đi tắc nghẽn chẳng thấy ai
Quan chức đón đưa đều tư lự
Tiến lùi đều khó biết làm sao
Hôm qua Hoàng Hà nước lên lớn
Năm ngày cả đoàn không ăn ngụ trên bờ cát
Hôm nay Vệ châu giặc trở về
Nghẽn đường không biết bao giờ yên
Ước ǵ có chiếc xe ngày vạn dặm
Thân này bay thẳng về kinh đô
Nghe nói dân đây khổ v́ hạn hàng năm
Xuân cày được nhưng mùa thu không gặt được
Hồ Nam Hà Nam chẳng có giọt mưa
Từ xuân đến thu đồng ruộng bỏ hoang
Nam nữ lớn nhỏ đều túng đói
Lấy cám thay cơm, rau lê làm canh
Mắt nh́n kẻ chết đói giữa đường
Cạnh người hột táo c̣n vương văi
Trong nhà trống vách đề chữ  “tra”
Trăm nhà chết đói và tan tác
Dân mọn không chịu nổi đói lạnh
Xem nhẹ tính mạng đâm làm càn
Múa may như đùa giỡn cùng binh khí
Khôn ra quan triều cứu giúp th́ được yên
Chớ bảo “Dân chết tại trời không tại ta”
Để dối ḷng và che dấu nhà vua
Thấy thành Tân Trịnh có yết bảng
Định ngày phát gạo để cứu dân
Phía bắc sông Hoàng mạch đă chín
Trăm ngày thôi già trẻ vợ con sẽ lại sống
Về đi, về đi chớ liều mạng
Quan phủ quư dân như cha anh

Chú thích:

(1)   Bạch Liên Giáo: một tổ chức bí mật có tính chất tôn giáo, có từ đời Nguyên, thường nổi binh đánh khắp nơi. Sang đời Thanh, Bạch liên giáo cũng phát triển.

(2)   Ư nói đă kiểm tra.

(3)   Hoàng tŕ lộng giáp: điển lấy ở sách Hán thư, ư nói nhân dân v́ đói rét mà nổi loạn, ví như trẻ con chơi đùa binh khí trong ao chuôm.

(4) Dân tử tại tuế bất tại ngă: dân chết tại trời làm mất mùa chứ không phải tại ta. Điển lấy trong sách Mạnh Tử. Đó là câu nói của bọn quan lại, vua chúa ngày trước, thấy dân đói th́ đổ tội cho trời làm mà không nhận là ḿnh không mang lại hạnh phúc cho dân.

(5)  Tân Trịnh: đời Thanh, thành này thuộc phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam.

199/249

Kê Thị Trung Tử

Cổ miếu tùng hoàng nhất đái u
Thanh phong do tự Trúc lâm thu (1)
Quảng Lăng điệu tuyệt dư thanh hưởng (2)
Chính khí ca thành lập nọa phu (3)
Cắng cổ vị can lưu huyết địa (4)
Kỳ trung năng phá vấn ma ngu (5)
Khả liên Giang Tả đa danh sĩ (6)
Không đối giang san khấp Sở tù (7)

Đền Thờ Ông Thị Trung Họ Kê

Ngôi miếu xưa cảnh tùng trúc xanh um
Vẻ thanh tao giống mùa thu rừng Trúc
Tiếng đàn Quảng Lăng dư âm c̣n vọng
Chính khí ca làm người hèn nghe cũng hứng
Muôn thuở đất vẫn c̣n lưu máu đổ
Ḷng trung làm sáng được vua khờ
Thương cho Giang Tả nhiều danh sĩ
Há ngồi nh́n đất nước mà khóc Sở tù

Chú thích:

Kệ Thị Trung: tức Kê Thiệu, con Kê Khang, làm chức Thị Trung đời Tấn Huệ Đế (290-306). Khi Huệ Đế bị giặc đuổi, tên bắn như mưa, Kê Thiệu lấy thân che cho vua, chết, máu phun cả vào áo vua.

(1)    Trúc Lâm: tức Trúc Lâm thất hiền, bảy người hiền ở rừng Trúc trong đó có Kê Khang cha Kê Thiệu . Câu này ư nói con cũng giữ được khí tiết của cha.

(2)   Quảng Lăng điệu: điệu đàn của Kê Khang.

(3, 4)  Chính khí ca: bài ca của Văn Thiên Tường đời Nam Tống có câu: “Vi Kê thị trung huyết” nghĩa là làm giọt máu của ông Thị Trung họ Kê.

(5)   Vấn ma ngu: cái ngu của người hỏi chuyện ễnh ương. Chỉ Tấn Huệ Đế. Tấn Huệ Đế nghe ễnh ương kêu th́ hỏi: “Ễnh ương kêu có ư v́ công hay v́ tư ?”. Tuy ngu như vậy, nhưng khi người hầu xin rửa vết máu ở áo th́ Huế Đế bảo chớ rửa, cứ giữ lấy để nhớ Kế Thị Trung.

(6)   Giang Tả: chỉ các đất ở phía hạ lưu sông Trường Giang. Cũng gọi là Giang Đông. Thời bấy giờ nhà Hán bị Ngũ Hồ lấy, Trung Nguyên phải chạy xuống Giang Đông.

(7)   Sở tù: tù binh người nước Sở. Sách Thế tuyết tân ngữ nói: những người Tấn thất bại qua sông, mỗi lần tiết đẹp th́ họp nhau ở Tân Đ́nh, chè chén và nh́n nhau khóc. Vương Đạo mặt biến sắc bùi ngùi nói: “Ta phải hết sức giúp nhà vua lấy lại nước cũ, sao lại bắt chước bọn tù binh nước Sở cứ nh́n nhau mà khóc?”

200/249

Nhạc Vũ Mục Mộ

Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng
Trượng bát thành thương lục thạch cung (1)
Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục (2)
Quân môn do tích thập niên công (3)
Giang hồ xứ xứ không Nam quốc
Tùng bách tranh tranh ngạo bắc phong
Trường vọng Lâm An cựu lăng miếu (4)
Thê Hà sơn tại mộ yên trung (5)

Mộ Nhạc Vũ Mục

Anh hùng trăm trận ở trung nguyên
Thương dài tám trượng, cung sáu cân
Tướng phủ khép tội ba chữ án
Quân thần vẫn tiếc mười năm công
Sông hồ man mác vắng Nam quốc
Bách tùng xào xạc ngạo bắc phong
Nh́n về Lâm An lăng miếu cổ
Thê Hà chiều khói phủ mây lồng

Chú thích:

Nhạc Mục Vũ: tức Nhạc Phi, người thời Nam Tống. Lúc bấy giờ trong triều đ́nh Nam Tống có hai phe, phe Tần Cối chủ ḥa với Kim, phe Nhạc Phi chủ trương đánh Kim. Sau mười năm xây dựng lực lượng, Nhạc Phi đem quân tiến đánh quân Kim th́ Tần Cối mạo lệnh vua gọi về, bỏ ngục rồi giết chết. Vũ Mục là tên thụy được truy tặng. Ở Tây Hồ, Hàng Châu (Chiết Giang) về sau có mộ Nhạc Phi, lại có tượng vợ chồng Tần Cối quỳ phía trước.

(1)    Thạch: một trăm hai mươi cân Trung quốc.

(2)   Tam tự ngục: án ba chữ. Khi Tần Cối ghép Nhạc Phi vào tội tử h́nh, Hàn Thế Trung hỏi : “Có tội ǵ?”. Cối trả lời: “Mạc tư hữu” (chẳng cần có). Về sau người ta gọi đó là  “ Tam tự ngục”.

(3)   Tần Cối giả lệnh vua một ngày hạ 12 đạo kim bài, bắt Nhạc Phi rút quân về. Lần cuối cùng Nhạc Phi than một câu rằng: “Công lao mười năm, bỏ đi một ngày!” rồi mang quân về.

(4)     Lâm An: kinh đô Nam Tống nay là Hàng Châu trên sông Tiền Giang.

(5)     Thê Hà: một quả núi ở Hàng Châu tỉnh Chiết Giang, dưới chân núi có mộ Nhạc Phi. Theo câu bảy th́ Nguyễn Du không đi đến Lâm An, chỉ đứng xa nh́n nên mới nói vọng.

201/249

Tần Cối Tượng I

Điện cối hà niên chùy tác tân (1)
Khước lai y bạng Nhạc vương phần (2)
Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự
Đả mạ hà thương nhất giả thân
Như thử tranh tranh chân thiết hán
Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân ?
Thùy vân ư thế vô công liệt ?
Vạn cổ vô năng cụ loạn thần

Tượng Tần Cối I

Cây cạnh điện vua bửa củi rồi
Cạnh mộ Nhạc vương, Cối dựa nhờ
Bàn luận đúng sai chuyện ngh́n thuở
Đánh chửi vẫn trơ cái thân hờ
Cứng cát như thế một thân sắt
Chẳng nhục lại luồn cúi quân Kim
Chớ bảo mạng này không công cán
Ngàn năm quân loạn vẫn sợ kiêng

Chú thích:

(1)    Tương truyền cuối Bắc Tống, bên điện vua Huy Tông có cây cối sinh nấm ngọc, người ta cho đó là điềm Tần Cối được trọng dụng để làm mất nhà Tống. Tần Cối trước làm quan Bắc Tống, bị quân Kim bắt rồi tha cho về Nam, làm tể tướng Nam Tống.

(2)   Người đời sau dựng tượng Tần Cối và vợ là Vương thị qú trước mộ Nhạc Phi. Người đến chiêm bái mộ Nhạc Phi thường phỉ nhổ, đánh đập vào tượng vợ chồng tên gian thần đó.

202/249

Tần Cối Tượng II

Cách thiên các hủy ngọc lâu tàn (1)
Do hữu ngoan b́ tại thử gian
Nhất thế tử tâm hoài đại độc
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan
Ngục trung dĩ tiễn sinh tiền huyết
Giai hạ đồ tru tử hậu gian
Đắc dữ trung thần đồn bất hủ
Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan

Tượng Tần Cối II

Tác tan lầu ngọc cùng gác mây
Một mạng gian hùng vẫn c̣n đây
Suốt đời ḷng đen dạ đầy độc
Ngàn năm sắt sống hứng oan lây
Trong ngục thảm tôi trung đổ máu
Dưới bệ hành thây kể chết rồi
Được kẻ trung thần cùng c̣n măi
Lạ thay cho phúc lớn tày trời

Chú thích:

(1)    Cách thiên các: nhà gác của Tần Cối ở, có treo tấm biển đề bốn chữ: “Nhất đức cách thiên” nên gọi là Cách thiên các. Bốn chữ ấy tự tay Huy Tông nhà Tống viết tặng Tần Cối, nghĩa là: “Vua tôi cùng có một đức thuần nhất, có thể cảm thông được ḷng trời”.

203/249

Vương Thị Tượng
Nhị thủ

Vương Thị Tượng I

Thiệt trường tam xích cánh hà vi ?
Hảo dữ quyền gian bị xướng tùy
Hậu hoạn chính ân cầm hổ nhật (1)
Tiền công an vấn ẩm long kỳ (2)
Nhất sinh tâm tích đồng phu tế
Thiên cổ h́nh hài nhục nữ nhi (3)
Để sự tưởng lai “mạc tu hữu”
Khuê trung tư ngữ cánh thùy tri ?

Tượng Vương Thị I

Lưỡi thị ba thước làm chi nhỉ ?
Gian thần khéo nghĩa kết phu thê
Trừ hoạn đề pḥng đà bắt hổ
Hoàng Long hẹn ước đếm xỉa ǵ
Một đời bụng dạ hệt gă chồng
Muôn thuở thân thị nhục nữ nhi
Nhớ lại cái lời  “mạc tư hữu”
Phải chăng lời rỉ chốn pḥng the ?

Chú thích:

Vương thị: vợ gian thần Tần Cối đời Tống (960-1279).

(1)   Tống bị Kim xâm lăng, Nhạc Phi chủ trương đánh, Tần Cối chủ trương ḥa. Tần Cối giả lệnh vua bắt Nhac Phi bỏ ngục, coi như bắt được hổ, nếu để sổng ra th́ sẽ có mối lo về sau nên giết đi.

(2)    Ẩm long: Nhạc Phi mang quân đánh Kim, có hẹn với tướng sĩ rằng: “Thẳng đến Hoàng Long cùng các ngươi uống rượu mừng.” (Hoàng Long là thủ đô nhà Kim).

(3)      Ở Hàng Châu hiện có mộ Nhạc Phi, phía trước có tượng vợ chồng Tần Cối qú chịu tội. Vương thị làm điều phi nghĩa, pho tượng của thị làm nhục đến phụ nữ.

(4)    Mạc tư hữu: chẳng cần có tội. (Xem chú thích bài Nhạc Vũ Mục Mộ, số 200).

204/249

Vương Thị Tượng II

Thâm đồ mật toán thắng phu quân
Ưng thị “thần kê” đệ nhất nhân (1)
Bất lạn dĩ sinh tam thốn thiệt
Thuần cương hoàng đắc vạn niên thân
Xướng tùy tận đạo ưng vô hối
Kỹ lưởng đồng niên cánh khả thân
Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng
Dă tằng hám phá Nhạc gia quân (2)

Tượng Vương Thị II

Mưu thâm sâu sắc quá anh chồng
Chính thị nhất mạng đă lộng quyền
Hiếm có trên đời ba tấc lưỡi
Thân lại đúc sắt tiếng vạn niên
Trọn đạo xướng theo chẳng ân hận
Đồng ḷng thủ đoạn cùng nhịp ăn
Chớ nói đàn bà không sức lực
Chính thị phá tan Nhạc gia quân

Chú thích:

(1)      Thần kê: do câu “Tẫn kê tư thần”; gà mái gáy sớm, chỉ người đàn bà lộng quyền.

(2)      Nhạc gia quân: quân họ Nhạc. Quân Kim rất sợ Nhạc Phi, thường bảo nhau; “Chuyển núi th́ dễ, phá đội quân của họ Nhạc th́ khó”.

205/249

Đồng Tước Đài *

Nhất thế chi hùng an tại tai ?
Cổ nhân khứ hề, kim nhân lai !
Bất kiến Nghiệp trung Ngụy Vũ đế (1)
Đăn kiến giang biên Đồng tước đài
Đài cơ tuy tại, dĩ khuynh dĩ
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ
Ngọc long Kim phượng tẫn mang mang (2)
Hà huống đài trung ca vũ kỹ !
Tư nhân thịnh thời, thùy cảm đương ?
Diểu thị hoàng đế, lăng hầu vương
Chỉ hận tằng đài không luật ngột
Tiểu Kiều chung lăo giá Chu lang (3)
Nhất triêu đại hạn hữu thời chí
Thượng thực tấu ca đồ duyệt quỉ
Phân hương mai lư khổ đinh ninh (4)
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ
Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm
Bất thị minh ai nhi nữ khí
Thiên cơ vạn xảo tẫn thành công
Chung cổ thương tâm Chương Giang thủy (5)
Ngă tư cổ nhân thương ngă t́nh
Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh
Như thử anh hùng thả như thử
Huống hồ thốn công dữ bạc danh
Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại
Thử địa cao đài ưng vị khuynh

Đài Đồng Tước

Một thuở anh hùng nay ở đâu?
Người cũ đi rồi người mới thay
Chẳng c̣n Vũ Đế trong thành Nghiệp
C̣n đài Đồng Tước nơi ven sông
Chân đài c̣n, đài đâu c̣n nữa
Gió gào lạnh lẽo băi cỏ thu
Lầu Long lầu Phượng không c̣n dấu
Nói chi ca kỹ chốn đài xưa
Người lúc mạnh ai dám đối đầu
Khinh rẻ vua nhục đám vương hầu
Tiếc đài sang không mang lợi ích
Tiểu Kiều già vẫn vợ Chu lang
Một ngày khi số đă tận rồi
C̣n muốn cỗ nhạc vui ḷng ma
Thêm lời bện dép cùng chia hương
Tài cao lỗi lạc thế thôi ư ?
Kẻ gian thường mang tâm khác biệt
Đâu đành kêu khóc như đàn bà
Muôn ngàn mưu mẹo thành không cả
Ngh́n đời thương cảm nh́n Chương Giang
Ngẫm đến người xưa mủi chút t́nh
Băn khoăn thương xót kiếp phù sinh
Anh hùng như thế mà như thế
Huống chi thân mọn với danh c̣m
Nếu đời lưu măi công danh nghiệp
Đài cao đâu đến nỗi phải nghiêng

Chú thích:

Đổng Tước Đài: một kiến trúc tráng lệ do Tào Tháo dựng lên, di tích nay c̣n ở phía tây nam huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam.

(1)     Ngụy Vũ đế: tức Tào Tháo. Tào Phi cướp ngôi Hán làm vua, tức Ngụy Văn đế, truy tôn cha là Ngụy Vũ đế.

(2)     Ngoc Long, Kim Phượng: là hai ṭa lầu ở hai bên đài Đồng Tước.

(3)   Tiểu Kiều: vợ Chu Du, Tào Tháo xây đài Đồng Tước, định bắt hai chị em Đại Kiều, Tiểu Kiều ở Đông Ngô về cho ở đấy.

(4)     Lúc sắp chết, Tào Tháo chia hương phấn cho bọn nàng hầu, và dặn lúc rỗi học làm dây buộc dép để bán mà kiếm ăn, lại dặn hàng ngày phải làm cơm nước cúng và đàn địch y như lúc c̣n sống.

(5)   Chương Giang: một con sông chảy qua tỉnh Hà Nam. Đúng ra th́ phải gọi là Chương Hà hoặc Chương Thủy. Bên sông này có mộ của Tào Tháo.

206/249

Thất Thập Nhị Nghi Trủng *

Nghiệp thành thành ngoại dă phong xuy (1)
Thu thảo tiêu tiêu cực sự phi
Uổng dụng nhất nhân vô hạn trí
Không lưu vạn cổ hứa đa nghi
Xú danh măn quách tàng hà dụng
Tặc cốt thiên niên mạ bất tri
Hà tự Cầm thành Tiên chủ miếu (2)
Chí kim tùng bách hữu quang huy

Bảy Mươi Hai Ngôi Mộ Giả

Bên ngoài thành Nghiệp gió lộng trời
Cỏ thu tiêu điều khác chuyện xưa
Phí cho mưu chước dạ con người
Lưu lại muôn năm một mối ngờ
Tiếng xấu, đầy quách dấu làm chi
Xương giặc ngàn năm mắng lợi ǵ
Không bằng Cẩm Thành miếu Tiên Chủ
Cây tùng cây bách vẫn sáng chưng

Chú thích:

Tào Tháo: người đời Tam Quốc, là kẻ gian hùng, t́nh hay ngờ vực, sợ đời sau phạm đến mộ của ḿnh nên trước lúc chết cho đắp bảy mươi hai ngôi mộ giả, để không ai biết rơ mộ thực ḿnh ở đâu.

(1)    Nghiệp thành: tên một ngôi thành cổ ở tỉnh Hà Nam, nơi Tào Thào đóng đô.

(2)    Cẩm thành: chính là Cẩm quan thành gọi tắt, ở phía nam huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, tức đất Ba Thục xưa của nhà Hán. Tại đây có miếu thờ Tiên chủ, tức là Lưu Bị.

207/249

Lạn Tương Như Cố Lư

Đại dũng bất dĩ lực
Cận hữu Lạn Tương Như (1)
Kiêu hănh năng hoàn bích (2)
Bồi hồi thiện tị cư (xa) (3)
Phong bi lưu tính tự
Toàn Triệu miễn khưu khư
Tàm quí lực ách hổ
B́nh sinh vô khả thư

Làng Cũ Lạn Tương Như

Kẻ dũng cảm đâu cần dùng sức
Chuyện gần phải kể Lạn Tương Như
Dùng mưu mang được ngọc bích về
Ngẫm nghĩ cho xe tránh lối đi
Bia kia tên họ c̣n ghi nhớ
Một nhà nước Triệu tránh g̣ hoang
Thẹn cho kẻ có sức bắt hổ
Sinh thời chẳng làm chuyện ghi danh

Chú thích:

(1)    Lạn Tương Như: quan thượng khanh nước Triệu thời Chiến quốc.

(2)      Hoàn bích: giữ ḥn ngọc được nguyên vẹn. Nước Triệu có ngọc bích quư. Vua Tần muốn đem mười lăm thành đổi lấy ngọc. Lạn Tương Như mang ngọc sang Tần, nhưng vua Tần không nói đến việc giao thành. Lạn Tương Như lập kế lấy lại ngọc đem về nguyên vẹn.

(3)      Liêm Pha và Lạn Tương Như cùng là thượng khanh nước Triệu. Liêm Pha ganh ghét Lạn Tương Như không có công đánh giặc mà cũng ở ngôi như ḿnh, có ư định làm nhục Lạn Tương Như. Lạn Tương Như biết vậy nên mỗi lần thấy xe Liêm Pha th́ cho xe ḿnh tránh đi ngả khác, nói rằng: “Không phải ta sợ Liêm tướng quân đâu, sở dĩ nước Tần không dám đánh nước Triệu là v́ có ta và Liêm Pha, nếu hai con hổ đánh nhau th́ thế không lưỡng toàn được. Ta tránh Liêm Pha là v́ quốc gia mà không nghĩ đến thù riêng”. Liêm Pha nghe lời nói ấy, đến gặp Lạn Tương Như xin tạ tội. Từ đó hai người kết bạn tâm giao, cùng nhau nỗ lực giúp nước Triệu.

208/249

Hàm Đan Tức Sự *

Nhất đái thùy dương bán mộ yên
Hàm đan thắng tích kiến di biên
Cao nguyên phong thảo hô ưng lộ
Hà xứ Vân ḥa hiệp kỹ diên (1)
Hồng lĩnh mộng trung hoang xạ liệp
Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên
Hoàng Hà nam bắc giai thu thủy
Hương tín hà do đạt nhạn biên

Tức Cảnh Hàm Đan

Hàng cây liễu trải khói chiều tà
Hàm Đan cảnh cũ sử chép qua
Trên cao cỏ ngợp chim săn huưt
Chốn nào ca nữ đàn Vân Ḥa ?
Núi Hồng mộng vắng cuộc săn bắn
Đầu bạc sông núi lưu chân ta
Nam bắc Hoàng Hà ngập nước lũ
Làm sao tin nhạn gửi về nhà ?

Chú thích:

Hàm Đan: ở Hà Bắc, kinh đô nước Triệu thời Chiến quốc.

(1)   Vân Ḥa: tên một khúc nhạc do nhạc quan gảy trong tiết mùa đông. Cũng có nghĩa là tên một số nhạc cụ dùng trong tiệc vui.

209/249

Hàn Tín Giảng Binh Xứ

Bách vạn tinh huy bắc độ hà
Yên giao địa hạ hữu trầm qua
Du du sự hậu nhị thiên tải
Đăng đăng thành biên nhất phiến sa
Khoái ngũ vị thành cam lục lục (1)
Quân tiền do tự thiện đa đa (2)
Khả liên thập thế sơn hà tại
Hậu thệ đồ diên Giáng Quán gia (3)

Chỗ Hàn Tín Luyện Binh

Trăm vạn lính phất cờ qua sông
Dưới đất Yên gươm giáo c̣n đông
Chuyện trước hai ngh́n năm vắng lặng
Nay thành một băi cát mênh mông
Chẳng ưng ngang Khoái, mang ḷng thẹn
So tài vua Hán khí hùng vang
Thề thốt mười năm cùng sông núi
Chỉ riêng Giáng, Quán c̣n được mang

Chú thích:

Hàn Tín: Người đời Hán, theo Hán Cao Tổ, đựơc cử làm đại tướng lập được nhiều công sau bị tru di tam tộc. Xem thêm chú thích bài số 189 Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu tác.

(1)     Hàn Tín thường sang nhà Phàn Khoái, Khoái quỳ lạy đón tiếp, tự xưng thần, nói: “ Đại vương mà cũng đến chơi nhà thần”. Hàn Tín ra cửa cười nói: “Sống để mà cùng hàng với Phàn Khoái à?”

Phàn Khoái, một trong những tướng giỏi của Hán Cao Tổ. Lúc hàn vi làm nghề bán thịt, cũng như Hàn Tín đi câu cá.

(2)      Hán Cao Tổ thường hỏi Hàn Tín về việc dụng binh. Cao Tổ hỏi: “ Như ta th́ có thể chỉ huy bao nhiêu quân?”. Hàn Tín nói: “ Bệ hạ bất quá chỉ huy được mười vạn là cùng”. Cao Tổ nói: “ Thế c̣n nhà ngươi?”. Tín trả lời: “Thần th́ càng nhiều càng tốt”. Cao Tổ cười nói: “Càng nhiều càng tốt, sao nhà ngươi lại để cho ta bắt?”. Hàn Tín nói: “ Bệ hạ không có tài chỉ huy quân, nhưng lại có tài chỉ huy tướng”.

(3)    Hậu thệ: lời thề nồng hậu. Khi Hán Cao Tổ phong cho các công thần có lời thề rằng: “ Bao giờ sông Hoàng Hà như dải áo, núi Thái Sơn như ḥn đá mài, th́ tước vẫn c̣n, truyền đến con cháu”. Nhưng về sau Tiêu Hà bị hạ ngục, Hàn Tín bị giết, Trương Lương bỏ đi tu tiên. Hưởng được vinh hoa phú quí chỉ c̣n Giáng Hầu (tức Chu Bột) và Quán Anh.

210/249

Liêm Pha Bi

Liêm Pha vong khứ Vơ An tướng (1)
Tứ thập vạn nhân đồng huyệt táng (2)
Nhũ xú tiểu nhi dị ngôn binh (3)
Nhất quốc trường thành đồ tự táng (4)
Kư khổn trọng nhậm tu lăo thành
Nội thẩm quốc thế, ngoại địch t́nh
Sở dĩ lâm địch năng chế thắng
Đoan tại quyên cừu tri phụ kinh (5)
Nhất quốc lưỡng hổ bất khả phạm (6)
Nhị thập dư niên thùy dữ tranh
Tướng quân tại thời, Triệu dĩ trọng
Tướng quân khứ thời, linh Triệu khinh
Sở hận sàm nhân chức thê phỉ (7)
Hà tu nhất thực tam di thỉ (8)
Bạch đầu khứ hậu bất trùng lai
Hàm Đan chi sự khả tri hĩ (9)
Triệu vong Tần kế tam thiên niên
Tướng quân danh tự chi kim truyền
Ma sa cổ kiệt tam thái tức
Bột bột tráng khí tưởng kiến kỳ sinh tiền
Kim nhân bất thiểu thực đa nhục (10)
Cơ linh gia dưỡng vô di súc
Thanh b́nh thời tiết vô chiến tranh
Nhất khẩu hùng đàm bất sổ Liêm Pha dữ Lư Mục (11)

Bia Liêm Pha

Liêm Pha đi xa, tướng là An
Chôn một huyệt bốn mươi vạn quân
Việc binh đao miệng sữa nói càn
Bức thành một quốc sao để tan
Kư thác trọng trách người lăo thành
Nội xét thế nước, ngoài xét địch
Thắng địch cũng v́ biết khống chế
Quyên thù riêng tạ tội cùng roi
Một nước hai hổ không ai chạm
Hai mươi năm trường chẳng ai tranh
Tướng quân c̣n đó, Triệu được trọng
Tướng quân đi rồi Triệu bị khinh
Giận cho kẻ gièm pha thêu dệt
Có sao đâu dù són ba lần
Đầu bạc đi rồi không trở lại
Hàm Đan chuyện tiếp biết được rồi
Triệu tan, Tần nối ba ngàn năm
Danh tướng c̣n truyền đến hiện nay
Lau tấm bia cổ ta than thở
Dường như hùng khí vẫn c̣n đây
Nay cũng lắm kẻ ăn nhiều thịt
Xơi hết trơn cả bầy gia súc
Thời buổi thanh b́nh, chẳng chiến tranh
Miệng mồm khoác lác lờ Mục, Pha

Chú thích:

Liêm Pha: danh tướng của nước Triệu thời Chiến quốc (xem chú thích bài Lạn Tương Như  Cố Lư số 207)

(1)     Vơ An: tức Bạch Khởi, vơ tướng giỏi của nhà Tần thời Chiến quốc, v́ có công đánh tràn lấy được hơn bẩy mươi thành của các nước chư hầu khác nên được vua Tần phong tước là Vơ Quan quân.

(2)   Bạch Khởi đem quân tần đánh nước Triệu, giết tướng Triệu là Triệu Quát và chôn sống 40 vạn hàng binh.

(3)    Chỉ Triệu Quát, tính hay tự phụ, nói việc cầm quân là dễ, bị cha là Triệu Xa mắng: “Quát sẽ là người ngày sau làm quân nước Triệu thua”.

(4)    Nhất quốc trường thành: bức tường thành của cả nước. Chỉ Liêm Pha

(5)   Liêm Pha muốn làm nhục Lạn Tương Như, sau hối hận mang roi đến nhà Lạn Tương Như để tạ tội (xem chú thích bài Lạn Tương Như Cố Lư số 207)

(6)    Lưỡng hổ: hai con hổ chỉ Lạn Tương Như và Liêm Pha.

(7)   Ư nói thêu dệt nên lời, lời gièm pha.

(8)    Tam di thỉ: ba lần són phân. Vua nước Triệu bỏ Liêm Pha không dùng nữa v́ nghe lời gièm pha nói Liêm Pha già yếu rồi, “trong một bữa ăn mà són phân ba lần”.

(9)    Hàm Đan: kinh đô nước Triệu, nay thuộc tỉnh Trực Lê.

(10)    Sử kư chép: Liêm Pha mỗi bữa cơm ăn mười cân thịt. Nhắc lại điều này, Nguyễn Du có ư mỉa mai những người ăn nhiều thịt như Liêm Pha mà chẳng làm nên công trạng ǵ đáng kể.

(11)   Lư Mục: cũng là tướng giỏi của nước Triệu. Nước Tần đem quân đánh Triệu, Lư Mục chống lại. Vua Tần sai người nói xấu Lư Mục với vua Triệu. Lư Mục bị giết, sau đó Triệu bị Tần thôn tính.

211/249

Nhị Thủ Tô Tần Đ́nh I

Tệ tận điêu cừu bất phục tê (tây)  (1)
Triệu đài để chưởng thổ hồng nghê
Tung hoành tự khả ngu dung chúa (2)
Phú quí hoàn năng cứ quả thê (3)
Lục quốc ấn tiêu sa mạc mạc
Nhất đ́nh thu mộ thảo thê thê
Nhân sinh quyền lợi thành vô vị
Kim cổ thùy năng phá thử mê ?

Đ́nh Tô Tần I

Áo cừu rách nát không về tây
Sang Triệu trổ tài nói ba hoa
Mang thuyết hợp liên phỉnh vua chúa
Phú quư khoe khoang với vợ nhà
Sáu quốc ấn tan cát mênh mông
Một đ́nh thu tịnh cỏ u sầu
Con người danh lợi chẳng có nghĩa
Xưa nay mê muội chừa ai đâu ?

Chú thích:

Tô Tần: người Lạc Dương đời Chiến quốc, điển h́nh kẻ ra hoạt động để mưu danh lợi, lúc đầu sang Tần bầy chước liên hoành chống sáu nước: Sở, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn, Tề. Vua Tần không nghe, thế là quay sang Triệu, bàn chước hợp tung liên kết sáu nước chống Tần.

(1)    Khi vua Tần không dùng, Tô Tần hết tiền, quần áo rách nát, phải bỏ đất Tần đi bộ về nhà.

(2)     Hợp tung, liên hoành: thời Chiến Quốc có bảy nước lớn. Tô Tần chủ trương liên kết sáu nước chống Tần gọi là hợp tung. Trương Nghi chủ trương thuyết phục sáu nước thờ Tần gọi là liên hoành.

(3)    Cứ quả thê: khi Tô Tần về nhà, vợ ngồi dệt vải không đứng dậy đón tiếp, chị dâu không nấu cơm cho ăn, cha mẹ cũng ghẻ lạnh. Tần giận ra sức đọc sách, khuya buồn ngủ lấy dùi đâm vào đùi cho đau để tỉnh dậy. Đến khi Tần đưa thuyết hợp tung thuyết phục sáu nước, được sáu nước phong làm tướng quốc, về thăm nhà, cả nhà đón tiếp niềm nở. Tô Tần hỏi: “Trước sao khinh rẻ, nay sao kính trọng”, có ư mỉa mai.

(4)    Về sau Tô Tần làm quan ở nước Tề, tranh giành địa vị với quan đại phu, bị ám sát.

212/249

Tô Tần Đ́nh II

Quí tử hắc cừu tệ (1)
Đồ bộ đảm nam qui
Kỳ thê bất há ky
Kỳ tẩu bất vị xuy
Phụ mẫu bất phục cố
Tương khan như lộ kỳ
Trượng phu nhất thất chí
Cốt nhục giai tương ly
Nhất triêu đại vận hữu thời chí
Lục ấn triền yêu minh đắc ư
Hoàng kim bách dật, bích bách song
Tụng xa thiên thặng lai hương lư
Phụ mẫu giao nghênh, tẩu tất hành
Thê kiến kỳ phu trắc mục thị
B́nh sinh chí nguyện tất ư tư
“Tiền cứ hậu cung”, ngôn chính bỉ (2)
Hợp tung bất tại khước cường Tần
Đăn hướng sở thân kiêu phú quí
Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu
Ta hồ, thử nhân tiểu tai khí !
Thư trung băo văn Tô Tần danh
Đạo trung khước quá Tô Tần đ́nh
Xa mă kim ngọc dĩ vô tích
Đ́nh tiền chi thảo không thanh thanh
Thế nhân đa độc Tô Tần truyện
Do vi vị thế phú quí thương kỳ sinh

Đ́nh Tô Tần II

Quí tử áo trừu rách
Đi bộ trở về nhà
Vợ dệt cửi thờ ơ
Chị dâu lờ nấu ăn
Cha mẹ cũng không nh́n
Nh́n như người qua đường
Đáng thương người thất thế
Người thân cũng bỏ bê
Một sớm vận hên bỗng gặp thời
Sáu ấn giắt lưng thật ngạo đời
Mang trăm nén vàng trăm đôi ngọc
Ngựa xe ngh́n cỗ về làng chơi
Cha mẹ đón cổng, chị qú gối
Vợ cúi đầu trộm liếc nh́n chồng
Thỏa chí b́nh sinh nay đă toại
“Trước khinh nay trọng” lời vậy sao
Hợp tung đâu phải đánh lui Tần
Mà mồi phú quí ngạo người thân
Đâm dùi vào vế cầu danh lợi
Than cho khí người thật nhỏ nhen
Sách xưa kể đến danh Tô Tần
Nay đường đi quá đ́nh nhà Tô
Ngựa xe vàng ngọc chẳng c̣n dấu
Sân đ́nh trước cỏ mọc xanh xanh
Người đời đă thấu rơ chuyện Tô Tần
Thế mà bả vinh hoa phú quí vẫn mắc vương

Chú thích:

(1)    Quí tử: tên tự Tô Tần.

(2)   Tiền cứ hậu cung: khi được làm tướng sáu nước, Tô Tần trở về làng, cả nhà đón tiếp niềm nở. Tô Tần hỏi: “Trước sao khinh, nay sao kính trọng?”. Người chị dâu trả lời: “V́ nay chú ngôi cao tiền nhiều”.

213/249

Dự Nhượng Chủy Thủ Hành

Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy  (1)
Trí Bá tất đầu vi niệu khí (2)
Vô nhân báo cừu thành khả bi
Kỳ thần Dự Nhượng thân đương chi
Tất thân vi lại dịch tu mi
Đương đạo khất thực thê bất tri
Thân hiệp chủy thủ phục kiều hạ
Nộ thị cừu phúc cam như di
Sát khí lẫm lẫm bất khả cận
Bạch nhật vô quang sương tuyết phi
Tái hoạch tái xá tâm bất di
Lâm tử do năng tam kích y  (3)
Lăng lăng kỳ khí can tiêu thượng
Tự thử kiều danh canh Dự Nhượng
Quân thần đại nghĩa tối phân minh
Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng
“Quí sát nhân thần hoài nhị tâm” (4)
Thiên cổ văn chi sắc trù trướng
Bất thị Kinh Kha, Nhiếp Chính đồ   (5)
Cam nhân hoạn dưỡng khinh kỳ khu
Huyết khí chi dũng bất túc đạo
Quân độc tranh tranh thiết trượng phu
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ (6)
Chú mục kiều biên như hữu đổ
Tây phong thê thê hàn bức nhân
Chinh mă tần tần kinh thất lộ
Chủy thủ đương thời thất thốn trường
Độc hữu vạn trượng quang mang cắng kim cổ

Bài Hành Về Mũi Dao Găm của Dự Nhượng

Ngoài thành Tấn nước cuồn cuộn chảy
Đầu Tri Bá nước thải làm ṿ
Rằng thương chẳng kẻ báo thù cho
Gia thần Dự Nhượng đương đầu ngay
Bôi ḿnh giả hủi cạo râu mày
Ngoài đường xin ăn vợ nào hay
Giắt dao phục nấp dưới chân cầu
Nhằm bụng kẻ thù tưởng ăn ngọt
Sát khí hầm hầm người tránh xa
Trời ngày sầm tối tuyết bay bay
Bắt lại, thả lại ḷng không chuyển
Chết kệ thây đâm áo ba lần
Khí lạ ùn ùn ngút trời cao
Cầu nay mang danh tên Dự Nhượng
Vua tôi nghĩa lớn rất phân minh
Kẻ sĩ thường dân ḷng tôn sùng khác
“Kẻ tôi hai ḷng phải chết thẹn”
Ngàn thu nghe tiếng vẫn cảm thương
Phải như Kinh Kha cùng Nhiếp Chính
Nhận ơn dành chịu liều xả thân
Hùng khí can trường nói sao hết
Trượng phu sắt đá khó ai b́
Đường đi Tam Tấn lắm cồn g̣
Bên cầu tưởng tượng bóng ai xưa
Gió tây lạnh thổi phát ghê người
Nhiều lần ngựa hăi sợ lạc đường
Ngày ấy ngọn dao chỉ bẩy tấc
Mà sao vạn dặm sáng ngời cổ kim

Chú thích:

(1)   Tấn Dương: ở huyện Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây, đó là đất Chu Thành Vương phong cho em, sau đổi thành nước Tấn. Lúc bấy giờ thành Tấn Dương bị Trí Bá khơi nước sông vào làm ngập thành.

(2)    Triệu Tương tử lấy đầu của Trí Bá làm ṿ đựng nước tiểu.

(3)   Khi bắt được Dư Nhượng, Triệu Tương tử nói: “Không phải trước kia anh làm tôi cho Phạm Trung Hàng, sao anh không báo thù mà lại làm tôi Trí Bá? Bây giờ Trí Bá chết rồi sao anh lại cứ khăng khăng báo thù cho được?”. Nhượng trả lời: “Tôi làm tôi cho họ Phạm, họ Phạm đăi tôi như một người thường nên tôi cũng lấy hành vi của một người thường mà báo đáp. Trí Bá th́ lại đăi tôi như quốc sĩ, cho nên tôi lấy danh vị của một quốc sĩ mà báo đáp.

(4)    Lời Dư Nhượng nói với bạn khi bạn thấy ông hơn ḿnh.

(5)    Kinh Kha: người nước Tề, sang ở nước Vệ, sau sang nước Yên, được Thái tử Đan trọng đăi, rồi t́nh nhguyện đi giết vua Tần.

Nhiếp Chính: người nước Hán lánh nạn ở nước Tề, bán thịt. Nghiêm Toại muốn giết tể tướng nước Hán là Hàn Lỗi, nhờ Nhiếp Chính giết hộ, lấy lễ hậu đăi, biếu mẹ Nhiếp Chính vàng bạc. Sau Nhiếp Chính giết Hàn Lỗi và tự lột da mặt, móc mắt, moi ruột để không ai nhận ra ḿnh, khỏi liên lụy đến người thân, nhưng người chị ruột vẫn tới nhận.

(6)   Tam Tấn: nước Tấn. Thời Xuân thu có ba họ Ngụy, Triệu, Hán đều làm khanh cho vua Tấn. Thời Chiến quốc họ chia nước Tấn ra làm ba, lập thành nước riêng (nay là Sơn Tây, Hà Nam và Tây Nam tỉnh Hà Bắc).

214/249

Dự Nhượng Kiều

Dự Nhượng nặc thân thích Tương Tử
Thử địa nhân danh Dự Nhượng kiều
Dự Nhượng kư sát triệu diệc diệt
Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu
Quân thần chính luận kham thiên cổ
Thiên địa toàn kinh tận nhất triêu
Lẫm liệt hàn phong đông nhật bạc
Gian hùng quá thử thượng hồn tiêu

Cầu Dự Nhượng

Dự Nhượng ẩn ḿnh đâm Tương Tử
Nay danh Dự Nhượng cầu thành tên
Dự Nhượng chết rồi Triệu cũng mất
Cỏ thu hiu hắt mọc bên cầu
Vua tôi chính nghĩa truyền ngh́n thuở
Trời đất đạo toàn một sớm mai
Gió đông lạnh buồn ngày ảm đạm
Kẻ gian qua đó cũng tiêu hồn


Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần I

Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III


Home | Literature | Poetry | Science | Great Places | Music and Fiction | Comments

Copyright © 2003-2005 Sóng Viêt-Ðàm Giang All Rights Reserved

This site is continually updated.