Trịnh Nguyễn Đàm Giang Biên Soạn - Diễn Dịch Thơ
Thơ Chữ Hán
Nguyễn Du
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III
Bắc Hành Tạp Lục Phần II 180 Tương Âm Dạ
180/249 Tương Âm Dạ (1) Măn mục giai thu sắc
Đêm Ở Tương Âm Đâu đâu cũng sắc thu
Kẻo rắn rồng hoảng kinh Chú thích: (1) Tương
Âm: tên một huyện tỉnh Hồ Bắc ở phía đông
sông Tương.
(2) Thiên trích:
đổi đi xa để khiển trách. Tác giả
nhắc đến chuyện Khuất Nguyên bị vua đầy
ra Giang Nam, nay là vùng Tương Âm.
181/249
Đăng Nhạc Dương Lâu (1)
Nguy lâu trĩ cao ngạn
Lên Lầu Nhạc
Dương
Lầu cao ngất bên bờ dựng đứng
Cố
hương chỉ thấy một vệt trời
Gió tây cô quạnh tựa lan can
Chú thích:
(1) Nhạc Dương Lâu: tên
một ṭa lầu ở cửa tây thành huyện Nhạc
Dương, tỉnh Hồ Nam do Trương Duyệt đời
Đường xây, đối mặt với hồ Động
Đ́nh.
(2) Tam
Sở: ba miền của nước Sở, Tây Sở, Đông
Sở, và Nam Sở; nay thuộc phần đất tỉnh
Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang.
(3) Cửu
Giang: có chín ḍng sông đổ vào hồ Động Đ́nh,
sông Phong, sông Nguyên, sông Tương, sôngTư, sông
Dương Tử...
(4) Tam túy:
ba lần say. Lữ Nham (hay Lă Nham) tự Đồng Tân, có
hiệu Thuần Dương, khi qua lầu này có hai câu
thơ:
Tam túy Nhạc
Dương nhân bất thức
(Ba lần say ở
lầu Nhạc Dương không ai biết.
182/249
Hoàng Hạc Lâu
Hà xứ thần tiên kinh kỷ th́
Lầu Hoàng Hạc
Thần tiên đâu đó bấy lâu nay
Chú thích:
Hoàng Hạc Lâu: lầu Hoàng hạc
ở Vơ Xương, thuộc thị trấn Vơ Hán, tỉnh
Hồ Bắc. Tương truyền Phí Huy Văn khi lên tiên
từng cưỡi hạc vàng đỗ ở đây.
Thôi Hạo;: (701-754) nhà thơ đời
Đường, người Biện Châu tỉnh Hà Nam
nổi tiếng v́ bài đề Hoàng Hạc Lâu.
(1) Lư sinh mộng: mộng chàng
Lư. Lấy tích từ một chuyện ngắn đời
Đường kể chuyện Lư sinh thi hỏng,
nghỉ trọ ở Hàn đan, gặp đạo sĩ cho
mượn cái gối để nằm ngủ. Lúc bấy
giờ chủ quán đang nấu nồi kê, Lư sinh
nằm ngủ thấy ḿnh lấy con gái họ Thôi, rồi đỗ
tiến sĩ, bao lần thăng quan tiến chức,
cuối cùng làm đến tể tướng, hưởng đủ
mọi vinh hoa phú quư trên đời, nhưng đến khi
tỉnh dậy nồi kê vẫn chưa chín.
(2) Hạc
khứ lâu không: hạc bay lầu trống. Lấy ư trong
hai câu thơ của Thôi Hạo:
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ.
Tản Đà dịch:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu.
183/249
Hán Dương Văn Diểu
Bá Vương trần tích thuộc du du
Ngắm Cảnh Chiều Ở Hán
Dương
Vua xưa dấu cũ đă xa rồi
Hán Dương: một huyện thuộc tỉnh Hồ bắc, cách Vơ
Xương một con sông. Vơ Xương là nơi có lầu Hoàng Hạc.
(1) Trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu:
T́nh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
(Hán Dương sông tạnh cây bày,
Tản Đà)
(2) Ư Nguyễn Du muốn nói nhờ bài thơ
Hoàng Hạc ấy mà cây Hán Dương, cỏ băi Anh Vũ
truyền lại đến ngày nay.
(3) Trong bài Hoàng Hạc Lâu c̣n có câu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn.
Tản Đà)
(4) Ư này lấy trong câu thơ của Lư Bạch:
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch.
(Trong lầu Hoàng Hạc có tiếng sáo ngọc thổi)
184/249
Nhiếp Khẩu
Đạo Trung
Thu măn phong lâm sương diệp hồng
Trên Đường Đi
Nhiếp Khẩu
Giữa thu rừng phong đỏ đượm sương
Chú thích:
Nhiếp Khẩu: thuộc huyện Hoàng Bi, tỉnh Hồ Bắc.
185/249
Lư Gia Trại Tảo
Phát
Hiểu sắc hà thương mang
Buổi Sáng Từ Nhà
Họ Lư Ra Đi
Sớm mai c̣n mờ mịt
Vũ Thắng Quan
Cốc Khẩu hùng quan Vũ Thắng danh (1)
Ải Vũ Thắng
Ải hùng Vũ Thắng nơi Cốc Khẩu
Nửa ngày bóng mát che lưng ngựa
Vũ Thắng Quan: cửa ải Vũ Thắng, ở phía nam huyện Tín
Dương, tỉnh Hà Nam.
(1)Cốc Khẩu: một núi
thuộc huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam.
(2) Man Kinh: chỉ vùng đất nước
Sở (nay thuộc các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc,
Chiết Giang, Giang Tô. Thời xưa nước Sở gọi là Kinh và là đất Nam Man,
nên thường gọi là Man Kinh.
187/249
Tín Dương Tức
Sự
Hà Nam thủ Tín Dương (1)
Viết Ở Tín
Dương
Hà Nam nắm trọn đất Tín Dương
Chú thích:
(1) Tín
Dương: tên một huyện thuộc tỉnh Hà Nam;
ở đây có bức thành cổ cũng gọi là thành Tín
Dương.
(2)
Thân quốc: nước Thân, một nước cũ do Vơ Vương
nhà Chu lập ra.
188/249
Ngẫu Hứng
Tín Dương thành thượng động bi già
Ngẫu Hứng
Tín Dương ảo năo tiếng kèn xa
189/249
Độ Hoài Hữu
Cảm Hoài Âm Hầu Tác
Tầm thường nhất phạn báo thiên câm (kim) (1)
Qua Sông Hoài Nhớ Hoài Âm
Hầu
Cơm thường một bữa đền ngh́n vàng
Chú thích:
Hoài Âm hầu: tức Hàn Tín đời
Hán. Ông người đất Hoài Âm, nhờ Tiêu Hà tiến
cử, được phong đại tướng, trong năm
năm giúp Hán Cao tổ lập được nhiều công
trạng, được phong Tề vương, sau đổi
thành Sở vương. Về sau có người tố cáo
oan cho ông là mưu phản, Hán Cao tổ giả vờ đi
chơi đất Vân Mộng, bắt về giáng làm Hoài Âm
Hầu. Sau bị Lă Hậu giết ba họ.
(1) Hồi
trẻ, Hàn Tín nhà nghèo, gặp bà Xiếu Mẫu cho ăn
một bữa cơm. Lúc làm Sở vương, Tín vời
Xiếu Mẫu đến trả ơn ngh́n vàng.
(2) Nhắc lại câu nói của Hàn Tín: “Vua Hán trao ấn
thượng tướng cho ta, cấp cho mấy vạn quân, cởi áo
cho mặc, nhường cơm cho ăn, ta nói điều
ǵ vua đều nghe, bàn kế ǵ vua đều dùng, nên ta
mới được như thế này”.
(3) Đây là thủ đoạn của các ông vua gian hùng
đờ i phong kiến. Đánh bại địch rồi th́ giết các
công thần, sợ họ cướp mất ngôi vua,
cũng như săn được mồi rồi th́
cất cung giết chó, không dùng nữa.
(4) Tương truyền khi Hàn Tín bị nạn, hai
người bạn là Tiêu Hà và Khoái Triệt giấu nàng
hầu của Tín đă có mang vào trong rừng núi
phương nam, nên sau này họ Hàn mới c̣n ṇi giống.
190/249
Độ Hoài Hữu
Cảm Văn Thừa Tướng
Sơn hà phong cảnh thượng y nhiên
Qua Sông Hoài
Nhớ Văn Thừa Tướng
Núi sông phong cảnh vẫn như nguyên
Chú thích:
Văn Thừa Tướng:
tức Văn Thiên Tường (1236-1282), hiệu Văn
Sơn, người đời Tống. Khi quân Nguyên
vượt sông Hoài đánh xuống nam, Thiên Tường khởi
binh chống cự, được phong là Hữu Thừa
Tướng, không may bị bắt, giam ở Yên Kinh bốn
năm, không khuất phục bị giết. Mới 47
tuổi. Bài Chính Khí Ca của ông khẳng khái, lẫm
liệt được nhiều người truyền
tụng.
(1) Hoài Hà: ranh giới giữa
Kim và Nam Tống. Tống Cao Tông
(Triệu Cấu) là vua đầu tiên của Nam
Tống kư ḥa ước với quân Kim, cắt Trung Quốc
làm hai, từ sông Hoài trở lên thuộc về Kim.
(2) Giang Tả: chỉ các đất phía đông hạ du
sông Trường Giang (các miền thuộc tỉnh Giang Tô), đây là chỉ đất
thuộc Nam Tống.
(3) Khi Văn Thiên Tường bị bắt, ông có làm hai câu
thơ ghi lại cảnh ngộ của ḿnh. Đó là bài Chỉ Nam
Lục và Chỉ Nam Hậu Lục.
(4) Thơ Văn Thiên Tường có câu:
Ṭng kim biệt khước Giang Nam lộ
(Từ nay cách biệt Giang Nam
(5) Ư câu này nói ngày nay nước nhà đă thống nhất.
191/249
Hà Nam Đạo Trung
Khốc Thử
Hà Nam thu bát nguyệt
Nắng
To Trên Đường Đi Hà Nam
Tháng tám thu Hà Nam
192/249
Cựu Hứa Đô
Hứa Châu thành, Hán đế đô
Hứa Đô Cũ
Thành đất Hứa, kinh đô Hán
Chú thích:
Hứa Đô:
thuộc huyện Hứa Xương, tỉnh Hà Nam.
Cuối Đông Hán, Tào Tháo đưa vua Hiến Đế đến
đóng đô ở đất Hứa, nên gọi là Hứa Đô.
(1) Tào thị: Tào Tháo đem vua
về Hứa Đô. Sau con của Tào Tháo là Tào Phi bắt vua
phải nhường ngôi tại đó.
(2) Thụ thiện đài: đài
nhường ngôi.
(3) Tào Phi đặt
tên nước là Ngụy, sau Tư Mă Viên lại
cướp ngôi của Ngụy, đổi tên là Tấn.
(4)
Kiến An: là niên hiệu Hán Hiến
Đế. Năm thứ 25 niên hiệu đó, Tào Phi
cướp ngôi nhà Hán.
193/249
Âu Dương Văn
Trung Công Mộ
Ngũ xích phong bi lập đạo bàng
Mộ Ông Âu Dương
Văn Trung
Bia cao năm thước dựng bên đường
Chú thích:
Âu Dương Tu: (1007-1072), tự Vĩnh Thúc, hiệu
Túy Ông; người đời Tống, tính trung trực. Sau
khi chết được tặng hiệu Văn Trung. Ông
là một trong tám nhà văn lớn đời Đường.
(1) Trùng tuyền: suối vàng.
(2) Danh gia bát đại: tám nhà
văn lớn đời Đường Tống là: Hàn
Dũ, Lư Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô
Triệt, Tăng Cùng, Vương Anh Thạch.
194/249
Bùi Tấn Công Mộ
Đăng đăng thu nguyên khâulũng b́nh
Mộ Bùi
Tấn Công
G̣ đống đồng thu sàn mênh mông
Chú thích:
Bùi Tấn Công: tức Bùi Đô, tự
Trung Lập, người đời Đường làm quan
dưới triều Đường Hiến Tông, có công
dẹp giặc được phong chức Tấn quốc
công, làm tể tướng 30 năm. Sau v́ nhóm hoạn quan
lộng quyền, ông cáo quan, về nhà ngâm vịnh với
các nhà thơ đương thời như Bạch Cư
Dị, Lưu Vũ Tích.
(1) Hai câu này lấy ư từ tích của Bùi Độ đề vào
bức truyền thần của ḿnh. Bùi Độ
tướng mạo b́nh thường nhưng văn vơ toàn tài.
(2) Chiêu Lăng:
tên lăng của Đường Thái Tông ở Thiểm Tây,
cách đó có một khu táng các văn thần vơ tướng
có công giúp nước. Có lẽ mộ Bùi Độ táng ở đó.
(3) Vị Thành: ở phía tây Trường An gần
Chiêu Lăng.
195/249
Hoàng Hà
Nhất khí mang mang hỗn độn tiền (1)
Sông Hoàng
Khí trời đất hỗn độn một bầu
Chú thích:
Hoàng Hà: con sông lớn thứ
hai của Trung quốc, có nhiều phù sa, nước vàng.
(1) Hỗn độn:
h́nh thái vũ trụ khi chưa phân trời đất.
(2) Thiên Hoàng: tên một v́ sao trên trời,
gần sông Ngân Hà. Cũng có nghĩa là ao trời.
(3) Theo truyền thuyết ngày xưa: Cứ năm trăm
năm, nước Hoàng Hà lại trong, đó là diềm có thánh chúa
ra đời, thiên hạ được thái b́nh thịnh vượng.
(4) Vua Vũ nhà Hạ cho đào sông ng̣i thoát nước, trừ
nạn lụt cho dân.
(5) Trương
Khiên: người đời Hán, theo Vệ Thanh đánh
Hung nô được phong tước hầu.
(6) Sách Bác
Vật Chí chép: sông Thiên Hà (tức Ngân Hà) thông với bể.
Có người hàng năm đến.
196/249
Hoàng Hà Trở Lạo
Long Môn tây thượng xích vân phù (1)
Mắc Lụt Bên Sông
Hoàng Hà
Long Môn mây đỏ nổi phía tây
Chú thích:
(1) Long Môn: tên một dăy núi
thuộc địa phận tỉnh Hà Nam.
(2) Côn Lôn: tên một dăy núi ở
phía giữa Châu Á. Sông Hoàng Hà bắt nguồn từ núi Côn Lôn.
(3) Thổ cẩu: chép
theo những tài liệu trong sách của những nhà biên
soạn trước th́ đây là con dê đất (?), theo
sách Từ Nguyên th́ đó là một loài vật ở
nước h́nh giống con dê. Ở đây để
chỉ một giống vật lạ do nước lũ
mang đến. (Lê Thước, Bùi Kỷ, Chương
Chính, Nguyễn Thạch Giang v.v...).
Qua lời giải
thích của một vị Bác Sĩ Y Khoa người Mỹ
gốc Trung Hoa thông thạo văn chương chữ
Trung Hoa th́ thổ cẩu là danh
từ chung người Trung Hoa dùng để gọi
những con chó lai giống, chó hoang, chó không có chủ (a mutt,
a mongrel dog, a wild dog). Tại Trung quốc và nhiều
quốc gia vùng Đông Nam Á, thịt chó được dùng
làm thực phẩm không phải là chuyện lạ.
Nguyễn Du làm bài thơ này trong mùa lũ lụt, thức ăn
hiếm có, tất cả phái đoàn đi xứ có lẽ đă
được cho ăn một loại bánh ḿ khô cứng
làm bằng bột lúa mạch, và thịt chó hoang nấu
vội vă có lẽ vừa dai, vừa không nêm gia vị
như lối Nguyễn Du đă được ăn
từ trước nên ông phải than rằng bánh mạch và
thịt chó hoang nấu không nuốt được.
Bản Anh ngữ dịch bởi Bác Sĩ Sue Jong từ nguyên bản bài chữ
Hán Hoàng Hà Trở Lạo của Nguyễn Du được
kèm theo dưới đây:
Yellow River Overflow
Westward over Dragon Gate crimson clouds were hovering
(4) Vô quải ngại: kinh
phật có câu: Tâm vô quải ngại, ḷng không bận bịu.
197/249
Tỉ Can Mộ
Độn cuồng quân tử các toàn thân (1)
Mộ Tỉ Can
Giả khùng đi trốn được yên thân
Chú thích:
Tỉ Can: là một người trong hàng chú bác của bạo chúa nhà Ân là Trụ. Ông
thường can gián Trụ nên bị Trụ giết.
(1) Độn cuồng: giả điên bỏ
trốn. Trước sự tàn bạo của Trụ, Vi
tử bỏ trốn, Cơ tử giả điên, do đó
không bị giết.
(2) Mạnh
Tân: tên một bến sông, nay là bến Hà Dương,
thuộc tỉnh Hà Nam. Vơ Vương nhà Chu hội quan tám trăm
nước chu hầu ở đây để đánh vua
Trụ.
(3) Thất
khiếu: bẩy lỗ. Sử kư chép: Tỉ Can can gián
vua Trụ, Trụ giận nói: “Ông tự cho ông là thánh, ta
nghe nói tim thánh có bẩy lỗ, không biết có thực
không?”, bèn giết Tỉ Can để xem tim.
(4) Thành nhân:
thành điều nhân. Khổng Tử nói: “Hữu sát thân
dĩ thành nhân” (Tự hy sinh để giữ điều nhân).
(5) Ngụy điền
xá: chỉ Ngụy Trưng đời Đường.
Ngụy Trưng trước làm tôi Thái Tử Kiến Thành,
anh Thế Dân. Sau Thế Dân giết Kiến Thành lên ngôi vua
(tức Đường Thái Tông). Nguy Trưng không chết
theo Kiến Thành mà lại thờ Thái tông. Ông ta hay nói
thẳng nên Thái tông gọi là “điền xá hán” (lăo nhà quê).
(6) Trung,
lương: Ngụy Trưng chia bầy tôi làm trung
thần và lương thần, trung thần là những
người trung trực v́ can gián mà bị giết, như
Tỉ Can, c̣n lương thần là những người
tôi hiền.
198/249
Trở Binh Hành
Kim tương tương, thiết tranh tranh
Bài Hành Về
Chuyện Binh Đao Làm Nghẽn Đường
Tiếng vàng tiếng sắt loảng xoảng reo
Chú thích:
(1) Bạch
Liên Giáo: một tổ chức bí mật có tính chất
tôn giáo, có từ đời Nguyên, thường nổi binh đánh
khắp nơi. Sang đời Thanh, Bạch liên giáo cũng phát triển.
(2) Ư nói đă kiểm tra.
(3) Hoàng tŕ lộng giáp: điển lấy ở sách Hán
thư, ư nói nhân dân v́ đói rét mà nổi loạn, ví như trẻ con
chơi đùa binh khí trong ao chuôm.
(4) Dân tử tại tuế bất tại ngă: dân chết
tại trời làm mất mùa chứ không phải tại ta. Điển
lấy trong sách Mạnh Tử. Đó là câu nói của
bọn quan lại, vua chúa ngày trước, thấy dân đói
th́ đổ tội cho trời làm mà không nhận là ḿnh
không mang lại hạnh phúc cho dân.
(5) Tân Trịnh: đời Thanh, thành này thuộc phủ Khai
Phong, tỉnh Hà Nam.
199/249
Kê Thị Trung Tử
Cổ miếu tùng hoàng nhất đái u
Đền Thờ Ông Thị Trung Họ Kê
Ngôi miếu xưa cảnh tùng trúc xanh um
Chú thích:
Kệ Thị Trung: tức Kê Thiệu, con Kê Khang, làm chức Thị Trung
đời Tấn Huệ Đế (290-306). Khi Huệ Đế
bị giặc đuổi, tên bắn như mưa, Kê
Thiệu lấy thân che cho vua, chết, máu phun cả vào áo vua.
(1) Trúc Lâm:
tức Trúc Lâm thất hiền, bảy người hiền
ở rừng Trúc trong đó có Kê Khang cha Kê Thiệu . Câu này
ư nói con cũng giữ được khí tiết của cha.
(2) Quảng
Lăng điệu: điệu đàn của Kê Khang.
(3, 4) Chính khí
ca: bài ca của Văn Thiên Tường đời Nam
Tống có câu: “Vi Kê thị trung huyết” nghĩa là làm
giọt máu của ông Thị Trung họ Kê.
(5) Vấn
ma ngu: cái ngu của người hỏi chuyện ễnh
ương. Chỉ Tấn Huệ Đế. Tấn
Huệ Đế nghe ễnh ương kêu th́ hỏi:
“Ễnh ương kêu có ư v́ công hay v́ tư ?”. Tuy ngu như
vậy, nhưng khi người hầu xin rửa vết
máu ở áo th́ Huế Đế bảo chớ rửa,
cứ giữ lấy để nhớ Kế Thị Trung.
(6) Giang
Tả: chỉ các đất ở phía hạ lưu sông
Trường Giang. Cũng gọi là Giang Đông. Thời
bấy giờ nhà Hán bị Ngũ Hồ lấy, Trung Nguyên
phải chạy xuống Giang Đông.
(7) Sở tù: tù binh người
nước Sở. Sách Thế tuyết tân ngữ nói:
những người Tấn thất bại qua sông, mỗi
lần tiết đẹp th́ họp nhau ở Tân Đ́nh,
chè chén và nh́n nhau khóc. Vương Đạo mặt biến
sắc bùi ngùi nói: “Ta phải hết sức giúp nhà vua
lấy lại nước cũ, sao lại bắt
chước bọn tù binh nước Sở cứ nh́n nhau
mà khóc?”
200/249
Nhạc Vũ Mục
Mộ
Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng
Mộ Nhạc Vũ Mục
Anh hùng trăm trận ở trung nguyên
Chú thích:
Nhạc Mục Vũ:
tức Nhạc Phi, người thời Nam Tống. Lúc
bấy giờ trong triều đ́nh Nam Tống có hai phe, phe
Tần Cối chủ ḥa với Kim, phe Nhạc Phi chủ
trương đánh Kim. Sau mười năm xây dựng
lực lượng, Nhạc Phi đem quân tiến đánh
quân Kim th́ Tần Cối mạo lệnh vua gọi về,
bỏ ngục rồi giết chết. Vũ Mục là tên
thụy được truy tặng. Ở Tây Hồ, Hàng
Châu (Chiết Giang) về sau có mộ Nhạc Phi, lại có
tượng vợ chồng Tần Cối quỳ phía trước.
(1) Thạch: một trăm hai mươi cân Trung quốc.
(2) Tam tự ngục: án ba chữ. Khi Tần Cối ghép
Nhạc Phi vào tội tử h́nh, Hàn Thế Trung hỏi : “Có tội ǵ?”. Cối
trả lời: “Mạc tư hữu” (chẳng cần có). Về sau người
ta gọi đó là “ Tam tự ngục”.
(3) Tần Cối giả lệnh vua một ngày hạ 12 đạo
kim bài, bắt Nhạc Phi rút quân về. Lần cuối cùng Nhạc Phi than một
câu rằng: “Công lao mười năm, bỏ đi một ngày!” rồi mang quân về.
(4) Lâm An: kinh đô Nam Tống nay là Hàng Châu trên sông Tiền Giang.
(5) Thê Hà: một quả núi ở Hàng Châu tỉnh Chiết Giang,
dưới chân núi có mộ Nhạc Phi. Theo câu bảy th́ Nguyễn Du không đi
đến Lâm An, chỉ đứng xa nh́n nên mới nói vọng.
201/249
Tần Cối Tượng I
Điện cối hà niên chùy tác tân (1)
Tượng Tần Cối I
Cây cạnh điện vua bửa củi rồi
Chú thích:
(1) Tương truyền
cuối Bắc Tống, bên điện vua Huy Tông có cây
cối sinh nấm ngọc, người ta cho đó là điềm
Tần Cối được trọng dụng để
làm mất nhà Tống. Tần Cối trước làm quan
Bắc Tống, bị quân Kim bắt rồi tha cho về
Nam, làm tể tướng Nam Tống.
(2) Người đời sau
dựng tượng Tần Cối và vợ là Vương
thị qú trước mộ Nhạc Phi. Người đến
chiêm bái mộ Nhạc Phi thường phỉ nhổ, đánh
đập vào tượng vợ chồng tên gian thần đó.
202/249
Tần Cối Tượng II
Cách thiên các hủy ngọc lâu tàn (1)
Tượng Tần Cối II
Tác tan lầu ngọc cùng gác mây
Chú thích:
(1) Cách thiên các: nhà gác của Tần Cối
ở, có treo tấm biển đề bốn chữ:
“Nhất đức cách thiên” nên gọi là Cách thiên các.
Bốn chữ ấy tự tay Huy Tông nhà Tống viết
tặng Tần Cối, nghĩa là: “Vua tôi cùng có một đức
thuần nhất, có thể cảm thông được ḷng
trời”.
203/249
Vương Thị Tượng
Vương Thị Tượng I
Thiệt trường tam xích cánh hà vi ?
Tượng Vương Thị I
Lưỡi thị ba thước làm chi nhỉ ?
Chú thích:
Vương thị: vợ gian thần Tần Cối đời
Tống (960-1279).
(1) Tống bị Kim xâm lăng, Nhạc Phi chủ
trương đánh, Tần Cối chủ trương ḥa.
Tần Cối giả lệnh vua bắt Nhac Phi bỏ
ngục, coi như bắt được hổ, nếu để
sổng ra th́ sẽ có mối lo về sau nên giết đi.
(2) Ẩm long: Nhạc Phi mang quân đánh Kim, có
hẹn với tướng sĩ rằng: “Thẳng đến
Hoàng Long cùng các ngươi uống rượu mừng.”
(Hoàng Long là thủ đô nhà Kim).
(3) Ở Hàng Châu hiện có mộ Nhạc Phi, phía
trước có tượng vợ chồng Tần Cối
qú chịu tội. Vương thị làm điều phi
nghĩa, pho tượng của thị làm nhục đến
phụ nữ.
(4) Mạc tư hữu: chẳng cần có
tội. (Xem chú thích bài Nhạc Vũ Mục Mộ, số 200).
204/249
Vương Thị Tượng II
Thâm đồ mật toán thắng phu quân
Tượng Vương Thị II
Mưu thâm sâu sắc quá anh chồng
Chú thích:
(1) Thần kê: do câu “Tẫn kê tư thần”;
gà mái gáy sớm, chỉ người đàn bà lộng quyền.
(2) Nhạc gia quân: quân họ Nhạc. Quân Kim
rất sợ Nhạc Phi, thường bảo nhau;
“Chuyển núi th́ dễ, phá đội quân của họ Nhạc th́ khó”.
205/249
Đồng Tước Đài *
Nhất thế chi hùng an tại tai ?
Đài Đồng Tước
Một thuở anh hùng nay ở đâu?
Chú thích:
Đổng Tước Đài: một kiến trúc tráng lệ do Tào Tháo dựng
lên, di tích nay c̣n ở phía tây nam huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam.
(1) Ngụy Vũ đế: tức Tào Tháo. Tào Phi cướp ngôi
Hán làm vua, tức Ngụy Văn đế, truy tôn cha là Ngụy Vũ đế.
(2) Ngoc Long, Kim Phượng: là hai ṭa lầu ở hai bên đài
Đồng Tước.
(3) Tiểu Kiều: vợ Chu Du, Tào Tháo xây đài Đồng
Tước, định bắt hai chị em Đại
Kiều, Tiểu Kiều ở Đông Ngô về cho ở đấy.
(4) Lúc sắp chết, Tào Tháo chia hương phấn cho bọn nàng
hầu, và dặn lúc rỗi học làm dây buộc dép để bán mà kiếm ăn,
lại dặn hàng ngày phải làm cơm nước cúng và đàn địch y
như lúc c̣n sống.
(5) Chương Giang: một con sông chảy qua tỉnh Hà Nam. Đúng ra
th́ phải gọi là Chương Hà hoặc Chương Thủy. Bên sông này có
mộ của Tào Tháo.
206/249
Thất Thập Nhị Nghi Trủng *
Nghiệp thành thành ngoại dă phong xuy (1)
Bảy Mươi Hai Ngôi Mộ Giả
Bên ngoài thành Nghiệp gió lộng trời
Chú thích:
Tào Tháo: người đời Tam Quốc, là kẻ gian hùng, t́nh hay ngờ
vực, sợ đời sau phạm đến mộ của ḿnh nên trước
lúc chết cho đắp bảy mươi hai ngôi mộ giả, để không
ai biết rơ mộ thực ḿnh ở đâu.
(1) Nghiệp thành: tên một ngôi thành cổ
ở tỉnh Hà Nam, nơi Tào Thào đóng đô.
(2) Cẩm thành: chính là Cẩm quan thành gọi
tắt, ở phía nam huyện Thành Đô, tỉnh Tứ
Xuyên, tức đất Ba Thục xưa của nhà Hán.
Tại đây có miếu thờ Tiên chủ, tức là Lưu Bị.
207/249
Lạn Tương Như Cố Lư
Đại dũng bất dĩ lực
Làng Cũ Lạn Tương Như
Kẻ dũng cảm đâu cần dùng sức
Chú thích:
(1) Lạn Tương Như: quan thượng
khanh nước Triệu thời Chiến quốc.
(2) Hoàn bích: giữ ḥn ngọc được
nguyên vẹn. Nước Triệu có ngọc bích quư. Vua
Tần muốn đem mười lăm thành đổi
lấy ngọc. Lạn Tương Như mang ngọc sang
Tần, nhưng vua Tần không nói đến việc giao
thành. Lạn Tương Như lập kế lấy
lại ngọc đem về nguyên vẹn.
(3) Liêm Pha và Lạn Tương Như cùng là
thượng khanh nước Triệu. Liêm Pha ganh ghét
Lạn Tương Như không có công đánh giặc mà
cũng ở ngôi như ḿnh, có ư định làm nhục
Lạn Tương Như. Lạn Tương Như
biết vậy nên mỗi lần thấy xe Liêm Pha th́ cho xe
ḿnh tránh đi ngả khác, nói rằng: “Không phải ta
sợ Liêm tướng quân đâu, sở dĩ nước
Tần không dám đánh nước Triệu là v́ có ta và Liêm
Pha, nếu hai con hổ đánh nhau th́ thế không
lưỡng toàn được. Ta tránh Liêm Pha là v́ quốc
gia mà không nghĩ đến thù riêng”. Liêm Pha nghe lời nói
ấy, đến gặp Lạn Tương Như xin
tạ tội. Từ đó hai người kết bạn
tâm giao, cùng nhau nỗ lực giúp nước Triệu.
208/249
Hàm Đan Tức Sự *
Nhất đái thùy dương bán mộ yên
Tức Cảnh Hàm Đan
Hàng cây liễu trải khói chiều tà
Chú thích:
Hàm Đan: ở Hà Bắc, kinh đô nước Triệu thời Chiến
quốc.
(1) Vân Ḥa: tên một khúc nhạc do nhạc quan gảy trong tiết
mùa đông. Cũng có nghĩa là tên một số nhạc cụ dùng trong tiệc vui.
209/249
Hàn Tín Giảng Binh Xứ
Bách vạn tinh huy bắc độ hà
Chỗ Hàn Tín Luyện Binh
Trăm vạn lính phất cờ qua sông
Chú thích:
Hàn Tín: Người đời Hán, theo Hán Cao Tổ, đựơc cử
làm đại tướng lập được nhiều công sau bị
tru di tam tộc. Xem thêm chú thích bài số 189 Độ Hoài
hữu cảm Hoài âm hầu tác.
(1) Hàn Tín thường sang nhà Phàn Khoái, Khoái quỳ
lạy đón tiếp, tự xưng thần, nói: “ Đại
vương mà cũng đến chơi nhà thần”. Hàn Tín ra cửa cười nói:
“Sống để mà cùng hàng với Phàn Khoái à?”
Phàn Khoái, một trong những tướng giỏi của Hán Cao Tổ. Lúc
hàn vi làm nghề bán thịt, cũng như Hàn Tín đi câu cá.
(2) Hán Cao Tổ thường hỏi Hàn Tín về
việc dụng binh. Cao Tổ hỏi: “ Như ta th́ có
thể chỉ huy bao nhiêu quân?”. Hàn Tín nói: “ Bệ hạ bất
quá chỉ huy được mười vạn là cùng”. Cao
Tổ nói: “ Thế c̣n nhà ngươi?”. Tín trả lời:
“Thần th́ càng nhiều càng tốt”. Cao Tổ cười
nói: “Càng nhiều càng tốt, sao nhà ngươi lại để
cho ta bắt?”. Hàn Tín nói: “ Bệ hạ không có tài chỉ huy
quân, nhưng lại có tài chỉ huy tướng”.
(3) Hậu thệ: lời thề nồng
hậu. Khi Hán Cao Tổ phong cho các công thần có lời
thề rằng: “ Bao giờ sông Hoàng Hà như dải áo, núi
Thái Sơn như ḥn đá mài, th́ tước vẫn c̣n,
truyền đến con cháu”. Nhưng về sau Tiêu Hà bị
hạ ngục, Hàn Tín bị giết, Trương
Lương bỏ đi tu tiên. Hưởng được
vinh hoa phú quí chỉ c̣n Giáng Hầu (tức Chu Bột) và Quán Anh.
210/249
Liêm Pha Bi
Liêm Pha vong khứ Vơ An tướng (1)
Bia Liêm Pha
Liêm Pha đi xa, tướng là An
Chú thích:
Liêm Pha: danh
tướng của nước Triệu thời Chiến
quốc (xem chú thích bài Lạn Tương Như Cố Lư số 207)
(1) Vơ An:
tức Bạch Khởi, vơ tướng giỏi của nhà
Tần thời Chiến quốc, v́ có công đánh tràn
lấy được hơn bẩy mươi thành
của các nước chư hầu khác nên được
vua Tần phong tước là Vơ Quan quân.
(2) Bạch Khởi đem quân tần đánh nước Triệu,
giết tướng Triệu là Triệu Quát và chôn sống
40 vạn hàng binh.
(3) Chỉ Triệu Quát, tính hay tự phụ, nói việc cầm quân là
dễ, bị cha là Triệu Xa mắng: “Quát sẽ là
người ngày sau làm quân nước Triệu thua”. (4) Nhất quốc trường thành: bức tường thành
của cả nước. Chỉ Liêm Pha
(5) Liêm Pha
muốn làm nhục Lạn Tương Như, sau hối
hận mang roi đến nhà Lạn Tương Như để
tạ tội (xem chú thích bài Lạn Tương Như
Cố Lư số 207)
(6) Lưỡng
hổ: hai con hổ chỉ Lạn Tương Như và Liêm Pha.
(7) Ư nói thêu dệt nên lời, lời gièm pha. (8) Tam di
thỉ: ba lần són phân. Vua nước Triệu bỏ
Liêm Pha không dùng nữa v́ nghe lời gièm pha nói Liêm Pha già
yếu rồi, “trong một bữa ăn mà són phân ba
lần”.
(9) Hàm Đan:
kinh đô nước Triệu, nay thuộc tỉnh Trực Lê.
(10) Sử kư
chép: Liêm Pha mỗi bữa cơm ăn mười cân
thịt. Nhắc lại điều này, Nguyễn Du có ư
mỉa mai những người ăn nhiều thịt
như Liêm Pha mà chẳng làm nên công trạng ǵ đáng
kể.
(11) Lư Mục:
cũng là tướng giỏi của nước Triệu.
Nước Tần đem quân đánh Triệu, Lư Mục
chống lại. Vua Tần sai người nói xấu Lư
Mục với vua Triệu. Lư Mục bị giết, sau đó
Triệu bị Tần thôn tính.
211/249
Nhị Thủ Tô Tần Đ́nh I
Tệ tận điêu cừu bất phục tê (tây) (1)
Đ́nh Tô Tần I
Áo cừu rách nát không về tây
Chú thích:
Tô Tần:
người Lạc Dương đời Chiến
quốc, điển h́nh kẻ ra hoạt động để
mưu danh lợi, lúc đầu sang Tần bầy
chước liên hoành chống sáu nước: Sở, Yên,
Triệu, Ngụy, Hàn, Tề. Vua Tần không nghe, thế là
quay sang Triệu, bàn chước hợp tung liên kết sáu
nước chống Tần.
(1) Khi vua Tần không dùng, Tô Tần
hết tiền, quần áo rách nát, phải bỏ đất
Tần đi bộ về nhà.
(2) Hợp tung, liên hoành: thời Chiến Quốc có bảy
nước lớn. Tô Tần chủ trương liên kết sáu nước
chống Tần gọi là hợp tung. Trương Nghi
chủ trương thuyết phục sáu nước
thờ Tần gọi là liên hoành.
(3) Cứ quả thê: khi Tô
Tần về nhà, vợ ngồi dệt vải không đứng
dậy đón tiếp, chị dâu không nấu cơm cho ăn,
cha mẹ cũng ghẻ lạnh. Tần giận ra sức đọc
sách, khuya buồn ngủ lấy dùi đâm vào đùi cho đau
để tỉnh dậy. Đến khi Tần đưa
thuyết hợp tung thuyết phục sáu nước, được
sáu nước phong làm tướng quốc, về thăm
nhà, cả nhà đón tiếp niềm nở. Tô Tần
hỏi: “Trước sao khinh rẻ, nay sao kính trọng”, có
ư mỉa mai.
(4) Về sau Tô Tần làm quan ở
nước Tề, tranh giành địa vị với quan đại
phu, bị ám sát.
212/249
Tô Tần Đ́nh II
Quí tử hắc cừu tệ (1)
Đ́nh Tô Tần II
Quí tử áo trừu rách
Chú thích:
(1) Quí tử: tên tự Tô Tần.
(2) Tiền cứ hậu cung:
khi được làm tướng sáu nước, Tô Tần
trở về làng, cả nhà đón tiếp niềm nở.
Tô Tần hỏi: “Trước sao khinh, nay sao kính
trọng?”. Người chị dâu trả lời: “V́ nay chú
ngôi cao tiền nhiều”.
213/249
Dự Nhượng Chủy Thủ Hành
Tấn Dương thành ngoại thao thao thủy (1)
Bài Hành Về Mũi Dao Găm của Dự Nhượng
Ngoài thành Tấn nước cuồn cuộn chảy
Chú thích:
(1) Tấn Dương: ở huyện Thái Nguyên
tỉnh Sơn Tây, đó là đất Chu Thành Vương
phong cho em, sau đổi thành nước Tấn. Lúc bấy
giờ thành Tấn Dương bị Trí Bá khơi
nước sông vào làm ngập thành.
(2) Triệu
Tương tử lấy đầu của Trí Bá làm ṿ đựng
nước tiểu.
(3) Khi bắt được
Dư Nhượng, Triệu Tương tử nói: “Không
phải trước kia anh làm tôi cho Phạm Trung Hàng, sao anh
không báo thù mà lại làm tôi Trí Bá? Bây giờ Trí Bá chết
rồi sao anh lại cứ khăng khăng báo thù cho được?”.
Nhượng trả lời: “Tôi làm tôi cho họ Phạm,
họ Phạm đăi tôi như một người
thường nên tôi cũng lấy hành vi của một
người thường mà báo đáp. Trí Bá th́ lại đăi
tôi như quốc sĩ, cho nên tôi lấy danh vị của
một quốc sĩ mà báo đáp.
(4) Lời Dư Nhượng nói với bạn khi bạn thấy ông
hơn ḿnh.
(5) Kinh Kha: người nước Tề, sang
ở nước Vệ, sau sang nước Yên, được
Thái tử Đan trọng đăi, rồi t́nh nhguyện đi
giết vua Tần.
Nhiếp Chính: người nước
Hán lánh nạn ở nước Tề, bán thịt. Nghiêm
Toại muốn giết tể tướng nước Hán
là Hàn Lỗi, nhờ Nhiếp Chính giết hộ, lấy lễ
hậu đăi, biếu mẹ Nhiếp Chính vàng bạc. Sau
Nhiếp Chính giết Hàn Lỗi và tự lột da mặt,
móc mắt, moi ruột để không ai nhận ra ḿnh,
khỏi liên lụy đến người thân, nhưng
người chị ruột vẫn tới nhận.
(6) Tam Tấn: nước Tấn. Thời Xuân
thu có ba họ Ngụy, Triệu, Hán đều làm khanh cho
vua Tấn. Thời Chiến quốc họ chia nước
Tấn ra làm ba, lập thành nước riêng (nay là Sơn
Tây, Hà Nam và Tây Nam tỉnh Hà Bắc).
214/249
Dự Nhượng Kiều
Dự Nhượng nặc thân thích Tương Tử
Cầu Dự Nhượng
Dự Nhượng ẩn ḿnh đâm Tương Tử
|
Qua Bắc Hành Tạp Lục - Phần III