Phẩm Thứ Năm

Quán Thế Âm Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông

Lúc bấy giờ, Quốc Mẫu Vi Đề Hy Hoàng Thái Hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như Lai qua lời dạy của Ngài Phổ Hiền Đại Bồ Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:

Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng.  Kính bạch Đại Sĩ đại từ đại bi! Con cũng thường nghe chư vị Trưởng Lăo trong Tăng Già luôn luôn nhắc nhở rằng:   Chỉ có Tứ Niệm Xứ là con đường độc nhất giúp chúng sinh diệt trừ Ưu Bi Khổ Năo, chứng ngộ Niết Bàn.  Nay được Thế Tôn mở bày pháp Niệm Phật, khiến hàng ưu bà tắc và ưu bà di đều phân vân, do dự.  Ư nghĩa ấy như thế nào?  Đâu mới là pháp chân thật rốt ráo?  Đâu là pháp phương tiện quyền biến?  Đâu là pháp tối hậu mà Như Lai thương ban cho các chúng sinh ở vào thời kỳ chính pháp cuối cùng?

 

Đức Phật mỉm cười lặng yên.  Ngài Phổ Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam Muội, thân và tâm bất động.

 

Khi ấy, ngài Quán Thế Âm Đại Bồ Tát liền từ bảo ṭa đứng dậy, trệch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh Đức Phật ba ṿng.  Rồi ngài hướng về bà Vi Đề Hy mà bảo rằng:

Nay tôi nương tựa uy thần vô hạn của Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn và tùy thuận Bản Nguyện Lực vô biên vô lượng của Đức A Di Đà Phật, mà tuyên dương năng lực vô cùng tận của Danh Hiệu Phật, tức là pháp môn Niệm Phật Tam Muội.

Này Vi Đề Hy, hăy nhận rơ như thế này, để đừng rơi vào nghi lầm nữa.

Đúng như ngươi vừa tŕnh bày, Tứ Niệm Xứ là Pháp Diệt Khổ, là pháp đối trị tham dục, ưu bị, khổ năo, là pháp đắc Niết Bàn vắng lặng.  C̣n pháp niệm Phật Tam Muội lại là pháp Thành Phật, là pháp Chứng Vô Thượng Giác, là pháp Thâm Nhập Cảnh Giới Bất Tư Nghị Của Chư Phật,  là pháp Mở Bày và Tỏ Ngộ Tri Kiến Như Lai, là pháp Cứu Độ Tất Cả Mọi Chúng Sinh, là pháp Siêu Việt trên hết thảy hí luận cùng biên kiến của Nhị Thừa.

Tại sao vậy?

Trước đây, Đức Thế Tôn v́ những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp Tứ Niệm Xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham, sân si, để thoát khổ và đắc A La Hán.

Nay v́ những người hân ngưỡng khát khao quả vị Bồ Đề, chí hướng mong cầu Phật Đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ Tát, th́ Đức Thế Tôn chỉ dạy Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.

Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, v́ một niệm Bất Giác nổi lên, che mờ Bản Thể Thường Trụ, nhận vật bên ngoài làm tâm, nhận sắc, thân, cảnh, giới làm tâm;  V́ luôn luôn bỏ mất Tâm Chân Thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển.  Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp xấu đẹp, cao thấp....Nếu như xoay được cảnh vật bên ngoài, th́ thân và tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, tṛn đầy, tức đồng với Chư Như Lai không khác.

Muốn xoay chuyển ngoại vật, th́ không chi bằng cách sử dụng diệu lực vô úy của Danh Hiệu Phật.  Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật mà hành giả nh́n thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng.  Do đó, thân tâm được điều phục và không c̣n bị ngoại cảnh chi phối, và lại chẳng c̣n móng khởi tâm phân biệt.  Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ, trong một lổ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa Tạng Thế Giới Hải.

Khi xưng niệm Danh Hiệu Phật, hành giả không để Tâm rong ruỗi theo thanh trần, mà xoay Cái Nghe trở vào Chân Tánh, đó là Danh Hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một ḍng Tâm, mà mỗi mỗi sát na đều hiển hiện Chân Như Tánh.  Chính nó thật là Tánh Nghe của ḿnh, chẳng c̣n hai tướng: động và tịnh, chỉ toàn là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.

Tiếp tục hành tŕ niệm Phật như thế, chẳng bao lâu th́ Tánh nghe cũng không c̣n.  Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng.  Danh Hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn.

Này Vi Đề Hy, trong pháp hội Thủ Lăng Nghiêm, tôi đă tŕnh bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho đại chúng.  Nhưng, vào thời mạt pháp, các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết Kinh Thủ Lăng Nghiêm sẽ bị tiêu diệt trước nhất, tiếp sau là Kinh Lăng Già, Kinh Kim Cang, Kinh Ma Ha Bát Nhă, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa v.v... Niếu không nương nhờ pháp Niệm Phật th́ rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông.  Bởi v́ sao?  Bởi v́ Niệm Phật Tam Muội chính là món Viên Thông Đệ Nhất.

Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, v́ lăn lộn trong đêm tối vô minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗ chỉ quy, lấy tà kiến làm bạn lứa, lấy biên kiến làm phương dược, nhận ngă chấp và ngă kiến làm tâm, rời xa Tri Kiến Giải Thoát  vô thượng.  Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, chánh tà,  thiện ác, thật giả...Nếu lọc sạch ngă kiến và ngă chấp th́ thân tâm sẽ quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới;  Tức đồng đẳng với Tri Kiến Giác Ngộ của chư Như Lai.

Nếu hành giả gạn lọc ngă kiến và ngă chấp, th́ không chi hơn là phát huy năng lực vô biên của Danh Hiệu Phật.  Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí; Ngă chấp tự nhiên rơi rụng; Ngă kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh nắng mặt trời.  Lúc bấy giờ, tuy không rời cung Đâu Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển pháp luân vô thượng, và khai tuệ giác cho vô lượng chúng sinh, giúp hết thảy tứ sinh cửu hữu cùng ngộ nhập Thật Tri Kiến.

Khi xưng niệm Danh Hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y Tha Khởi.  V́ không có sự tham dự của Ngă và Ngă Sở nên Biến Kế Sở Chấp cũng chẳng tồn tại.  Chỉ c̣n Danh Hiệu Phật vẫn tuôn chảy liên miên bất tận thành một ḍng tâm, mà mỗi mỗi sát na đều hiển hiện Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm Tam Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.

Tiếp tục hành tŕ Niệm Phật như thế, chẳng bao lâu, th́ chẳng c̣n nh́n thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên ngoài và cũng chẳng c̣n bắt gặp Tám Thức ở bên trong.  Trong hay ngoài đều giả dối, không thật.  Ngay cả tướng Duy Thức cũng chẳng có nốt.  V́ ba đời mười phương Như Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, Tâm vương, Tâm sở...đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sinh, tự diệt.  Danh Hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, “như có như không”, cho đến khi Chân Duy Thức Tánh biến mất, th́ Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày.  Danh Hiệu Phật sẽ dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Phật, chứng Vô Sinh Pháp Nhẫn.

 

Do đó, phải nói rằng, Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng để chuyển Thức thành Trí, mà chúng sinh thời mạt pháp phải siêng năng thọ tŕ.

 

Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay bị vô số tư tưởng điên đảo làm khuất lấp Tánh Viên Giác.  Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngă tư đường cái, chẳng rơ phương hướng, lẫn lận chánh tà, thấy cong nh́n ngược, không phân biệt được thiện ác...Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sinh Thân và Tâm, rồi lại nhận lầm thân tứ đại giả hợp làm Thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm Tâm.  Cứ thế mà sinh tử, tử sinh nối nhau không dứt, tạo thành ṿng lẩn quẩn luân hồi.

Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật; Như hoa đốm, như bóng nước, như ảo tưởng, như sa mạc, như người ngủ chiêm bao thấy những sự việc và cảnh vật rơ ràng, nhưng khi thức dậy, thời không c̣n ǵ hết.  Nếu chuyển hóa vô minh điên đảo thời thân và tâm sẽ thành ra Giác Ngộ.  Hoặc nếu không phát tâm tu tŕ thời ở măi trong sinh tử huyễn mộng ấy mà tự vui.  Chỉ có Danh Hiệu Phật là đầy đủ năng lực nhiệm mầu để chuyển hóa vô minh trở nên Giác Ngộ, chuyển hóa sinh tử trở nên Niết Bàn, chuyển hóa giả huyễn trở nên Chân Thật.

V́ sao vậy?

Khi xưng niệm Danh Hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu Chánh Định Như Lai, tự nhiên phát sinh Tuệ Giác Không Tánh, v́ Danh Hiệu Phật là Hư Không Tạng, là Viên Giác Tánh, là Vô Cấu Tạng, là Tịch Tịnh Tạng...Nhờ vậy, hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên ĺa xa các huyễn hóa, sinh diệt.  Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên Giác Tánh.  Đó gọi là Tri Huyễn Tức Ly, Ly Huyễn Tức Giác.

 

Dùng pháp nào đễ Tri?  Nếu không phải diệu dụng của Danh Hiệu Phật.

Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn mới cho chúng nó là huyễn.  Không cần thay đổi bản chất Huyễn của nó mới gọi là Không.  Mà chính cái Biết “Nhất Thiết Pháp là Không” khiến đương thể của Huyễn Pháp tức là Không.

Tiếp tục xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự, mà hướng cái Biết vào Viên Giác Tánh. Đó là Danh Hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc.  Mà mỗi mỗi sát na đều hiển lộ Như Lai Tạng, và Cái Biết cũng không c̣n nữa.  Danh hiệu Phật vẫn tương tục không gián đoạn, ḥa tan Căn, Trần, Thức đều nhập vào Viên Giác Tánh, b́nh đẳng bất động, thường trụ như hư không, tṛn đầy chiếu suốt mười phương.

Bởi vậy, phải nói rằng: Niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng Danh Hiệu Như Lai mà thâm nhập Như Lai Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa hư dối trở nên Viên Giác Tánh.  Các hạng chúng sinh thời mạt pháp phải siêng năng thọ tŕ.

 

Này Vi Đề Hy, tất cả chúng sinh từ vô thủy đến nay, bị phiền năo chi phối ngày đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm tâm, bỏ quên Thắng Giải Trí, Vô Thượng Trí, rồi lại bị Tham Sân Si Mạn Nghi lôi cuốn.  Cộng thêm vào Thân Kiến, Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Cấm Thủ Kiến chồng chất lấp vùi.  Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy có mừng giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục...Nếu tận trừ phiền năo th́ thân tâm vắng lặng, an nhiên tự tại, tức đồng với chư Phật không khác.

Muốn tận trừ phiền năo, th́ không chi hơn là phát huy năng lực Trí Giải Siêu Việt của Danh Hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.  Thật vậy, nhờ cần mẫn xưng niệm Phật Hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lương, chuyển phiền năo dữ dội ấy trở thành Bồ Đề Thật Tướng, đưa hành giả thẳng vào Cảnh Giới Thánh Tri Tự Chứng.  Lúc bấy giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng Ấn Địa Xúc để cải biến Ta Bà thành Tịnh Độ Trang Nghiêm, niệm niệm tương ứng với Đại Địa Bồ Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xă hội chúng sinh khắp mười phương vi trần hằng hà sa thế giới.